Wednesday, April 18, 2012

Rồi sẽ có

Dịch lời bản Somewhere My Love.

Rồi sẽ có một nơi
Đời cất cao tiếng hát
Dù bây giờ tuyết lạnh
Bít kín mầm đất xuân

Rồi sẽ có ngọn đồi
Vàng rực hoa, xanh biếc cỏ
Một nắm giấc mơ lành
Tràn ắp lồng ngực nhỏ

Sẽ có ngày tao ngộ
Lúc xuân hồng bung lên
Em lại về bên anh
Từ triền miên xa cách

Tay em ấm tình nắng
Môi em mềm lụa hôn
Chờ ngày xuân trùng phùng
Nghĩ về anh, em nhé!

Tình xưa còn lại gì

Dịch lời bản Que reste-t-il de nos amours của Charles Trenet.


Đêm nay
Nghe gió gõ cửa
Kể chuyện tình đã qua
Trước ánh lửa tàn
Đêm nay
Khúc thu ca khẽ ngân
Trong gian nhà run rẩy
Tưởng nhớ ngày xa xăm

Lời âu yếm thủ thỉ
Thoảng ve vuốt rụt rè
Rừng vắng nguyện thề
Hoa khô kẹp sách
Mùi hương ngây ngây
Lặng bay đâu mất?

Tình xưa còn lại gì
Ngày vui còn lại gì


Tấm ảnh cũ phai màu
Thời trai trẻ
Tình thư còn lại gì
Hò hẹn ngày đầu xuân
Kỷ niệm sao chẳng thôi
Vương vấn?

Hạnh phúc phai nhạt
Tóc xõa gió bay
Nụ hôn len lén
Giấc mộng nao nao
Còn lại gì
Ngôi làng nhỏ
Tháp chuông xưa
Cảnh tịch liêu
Giữa mây kia chợt hiện
Gương mặt thương thương
Ngày cũ ...

Bao giờ

(Et après)



Đường về nhà ai nhiều hoa bướm không tên
Gió nhẹ đưa làn mây trắng êm êm
Đến bao giờ? Có bao giờ?
Đường về nhà ai quạnh hiu bước lê thê
Không ngày vui và không nỗi đam mê
Có bao giờ? Đến bao giờ?

Nhiều lần nhìn ai bằng ánh mắt ngây thơ
Mảnh trời trong bình yên rất đơn sơ
Có bao giờ? Đến bao giờ?
Nhiều lần gặp ai mà không nói nên câu
Môi lặng câm và tim thấy nhói đau
Bao giờ cho đêm qua mau?

Có những gót chân nhẹ nhàng thênh thang
Tung nắng vàng rong chơi trần gian
Ngày trong vắt, đêm dịu dàng
Có những bước đi trầm buồn miên man
Đếm sao trời lo cơn mộng tan
Loay hoay tìm đường về một ngày mùa xuân sang

Rồi một ngày tươi người chung lối đi vui
Hoa nhẹ lay giọt sương sớm tinh khôi
Có hôm này, đến khi này
Đường đời còn qua muôn lối quanh co
Những niềm vui và những nỗi âu lo
Tay cầm tay người còn đây…

Thiết tha

(Noreen)



Từng giây phút tôi mơ về chỉ một người
Từng giây phút tôi nhìn thấy có em thôi
Từng tia nắng rọi bên thềm
Từng phiến lá non tươi
Từng cơn gió vui đùa đó là em

Từng đêm vắng tôi mơ về chỉ một người
Từng ngày nắng tôi nhìn thấy có em thôi
Trong sương sớm mai ửng hồng
Chiều xuống tím mênh mông
Từng thời khắc trong trời đất là em.

Lòng đắng ngắt nhớ phút giây phải chia lìa
Lòng trách cứ hỏi bởi đâu rời xa
Ngày tháng héo úa, tim nghẹn nỗi buồn
Đau đáu vết cắt, ước ao lệ tuôn.

Còn tha thiết ước mơ ngày tương phùng
Còn khao khát chỉ được có bên em luôn
Rồi đông trắng rồi thu vàng
Hè biếc nối sắc xuân
Từng mùa tiết trong trời đất cùng em.

Dù ngày qua đi, dấu thời gian mờ
Đường ký ức có phôi pha
Từng thời khắc trong trời đất
Còn em.

Tuesday, April 17, 2012

Nỗi niềm

(The Winner Takes It All)



Cuộc tình như mây trời
Dừng lại trong phút chốc thôi
Giữa khi tim còn bỡ ngỡ
Cuốn bay theo làn gió
Người yêu như thoáng mộng
Về nhen lên chút ấm êm
Đến khi tim vừa tỉnh giấc
Thoáng mơ sao vụt biến mất
Còn lại trống vắng đôi tay
Còn lại bóng dáng đôi vai
Và còn chất chứa đắng cay
Giữa tâm hồn tê tái

Lòng không nguôi nỗi sầu
Tưởng còn trông thấy mắt em
Thiết tha như niềm mơ
Lắng sâu như niềm nhớ
Tưởng còn nghe tiếng cười
Làn môi thơm tiếng mến thương
Ấm như tim ngập nắng
Sáng như mắt tìm trăng
Chỉ là bóng dáng mong manh
Chỉ là khói biếc tan nhanh
Hồn càng níu chút dư hương
Ước mơ càng xa tay với
Một lần nếm biết yêu thương
Một đời biết mấy tơ vương
Tình đầu tiếng khóc chơi vơi
Đôi tay mòn buông lơi

Rồi buồn theo tháng ngày
Ngày dài trôi mãi giống nhau
Trống trong tay rời rã
Vắng trong tim lạnh giá
Một dòng sông hững hờ
Một đời quên hết tiếng vui
Có những khi chiều xuống
Ngắm sương đêm dần buông
Đời mờ khuất giữa mây trôi
Người chìm khuất sóng xa khơi
Lạnh đầy phủ kín pha phôi
Tái tê lòng đơn côi
Còn lại luyến tiếc không nguôi
Kỷ niệm thấp thoáng xa xôi
Nụ cười héo hắt trên môi
Khuất sâu vào đêm tối

Còn đôi môi nín lặng
Lòng buồn thôi tiếng xót xa
Biết qua đi ngày tháng
Nỗi đau cũng trầm lắng
Đời dạt trôi nỗi niềm
Tìm về đâu chút ấm êm
Có những đêm lặng nhớ
Có những đêm vùi quên
Người còn nhớ thoáng mây đưa
Người còn nhớ ánh sao thưa
Người còn nhớ chút hương xưa...

Monday, April 16, 2012

Ba mươi chín bậc thang - Chương 10: Chạm trán

Bầu trời bình minh tháng sáu sắc hồng và xanh chen lẫn. Tôi đứng trong khách sạn Griffin ở Bradgate nhìn xuống mặt biển phẳng lặng trải ra tới chỗ con tàu mang đèn hiệu neo cạnh cồn Cock. Từ xa rẻo cồn cát nhìn nhỏ như chiếc phao báo nguy. Cách đó một đôi dặm về phía nam và neo gần bờ hơn là một tàu khu trục nhỏ. Scaife, tức viên chức dưới quyền Macgillivray, nguyên là dân hải quân nên có biết con tàu kể trên. Ông ta cho tôi hay tên chiếc tàu cùng với tên vị sĩ quan chỉ huy, và tôi gởi cho Sir Walter một bức điện tín.

Ăn sáng xong Scaife nhận từ tay người môi giới nhà cửa chiếc chìa khóa mở dãy cổng cầu thang ở xóm Ruff. Tôi đi với ông ta dọc bãi cát tới một chỗ khuất trong vách đá thì ngồi chờ trong lúc ông ta đếm số bậc của từng cầu thang. Tôi không muốn lộ diện, nhưng giờ này chung quanh vắng tanh, nhìn ra bãi biển chỉ thấy toàn hải âu.

Scaife mất hơn một tiếng mới xong việc, và tim tôi đập thình thịch khi nhìn thấy ông ta trở lại tay cầm mảnh giấy. Mọi sự đều tùy vào tôi đoán có đúng hay không.

Ông ta đọc to số bậc của mỗi cầu thang. "Ba mươi bốn, ba mươi lăm, ba mươi chín, bốn mươi hai, bốn mươi bảy" và "hai mươi mốt" ở chỗ vách đá thấp xuống. Tôi chỉ muốn nhảy lên la thật lớn.

Chúng tôi hối hả trở lại phố đánh điện cho Macgillivray. Tôi cần sáu người chia ra ở tại vài khách sạn khác nhau. Sau đó Scaife đi thám thính ngôi nhà ở đầu cầu thang có ba mươi chín bậc.

Ông ta trở về đem theo tin tức khiến tôi vừa yên tâm lại vừa thắc mắc. Theo lời người môi giới nhà cửa thì ngôi nhà có tên Trafalgar Lodge, chủ nhân là một quí ông đã lớn tuổi tên Appleton, trước hành nghề môi giới chứng khoán còn nay đã nghỉ hưu. Ông Appleton thường có mặt vào mùa hè, đang ở nhà gần cả tuần nay. Scaife không tìm hiểu được gì nhiều về ông ta, chỉ nghe nói ông ta là người tử tế, trả hóa đơn đúng hạn, và đóng góp rộng rãi cho việc từ thiện. Scaife giả làm người chào bán máy may tới gõ cửa sau thì thấy trong nhà chỉ có ba người giúp việc, một đầu bếp với hai cô làm việc nhà, cả ba đều giống như mọi người giúp việc khác trong các gia đình trung lưu nề nếp. Bà bếp không ưa tán gẫu nên mau chóng đóng sầm cửa lại, nhưng Scaife chắc chắn là bà ta không biết gì. Nhà kế bên đang xây dở, có thể dùng làm địa điểm quan sát, còn ngôi biệt thự mé bên kia để bảng cho thuê, mảnh vườn thiếu chăm sóc tỉa sửa.

Tôi mượn ống dòm của Scaife và đi dạo một vòng xóm Ruff trước giờ ăn trưa. Tôi đi ra xa phía sau những dãy biệt thự và tìm được chỗ quan sát tiện lợi ngay bên lề sân gôn. Từ đây nhìn ra thấy chỗ sân cỏ dọc đỉnh vách đá có ghế ngồi đặt cách khoảng và những vuông đất nhỏ trồng cây kiểng có rào bao bọc, bên trong mỗi ô rào là đầu cầu thang dẫn xuống bãi biển. Tôi nhìn thấy biệt thự Trafalgar Lodge rất rõ, tường gạch đỏ có hàng hiên bên ngoài, sau nhà có sân cỏ chơi tennis, phía trước là vườn hoa trồng cúc trắng và những bụi phong lữ còi cọc như thường thấy ở xứ biển. Trong sân có cột cờ treo lá cờ Anh ủ rủ dưới trời lặng gió.

Chợt có người ra khỏi nhà đi lững thững dọc theo đỉnh vách đá. Qua ống dòm tôi thấy một ông lão mặc quần trắng, áo khoác vải serge màu xanh da trời, đội nón rơm. Ông ta cầm theo cặp ống dòm với tờ báo, ngồi xuống chiếc ghế sắt và dở báo đọc. Thỉnh thoảng ông ta để báo xuống, cầm ống dòm nhìn ra biển. Ông ta nhìn chiếc tàu khu trục rất lâu. Tôi quan sát ông lão độ nửa giờ cho tới lúc ông ta đứng dậy vô nhà ăn trưa thì tôi cũng quay về khách sạn.

Tôi không cảm thấy chắc bụng cho lắm. Trong đầu tôi không hình dung hang ổ kẻ thù là một nơi bình thường tử tế như vầy. Ông lão có thể là nhà khảo cổ hói đầu tại khu trại kinh hoàng nọ, mà cũng có thể không. Nhìn ông ta cũng giống như mọi người lớn tuổi mặt mày mãn nguyện có mặt khắp các khu ngoại ô và nơi nghỉ mát, hoàn toàn vô hại.

Tuy nhiên sau bữa trưa tôi đang ngồi nghỉ trước hiên khách sạn thì bật dậy chú ý, vì tôi đã nhìn thấy điều mình đang hồi hộp chờ đợi. Từ phía nam một chiếc du thuyền tiến lại thả neo ngay chỗ đối diện với xóm Ruff. Con tàu to độ trăm rưỡi tấn, lá cờ trắng cho thấy nó là thành viên của câu lạc bộ Squadron. Scaife và tôi bèn xuống cảng mướn thuyền đi câu cá trọn buổi chiều.

Tôi có được buổi chiều ấm áp và bình yên. Hai chúng tôi câu được tổng cộng mười cân cá thu và cá pollack. Biển xanh lấp lánh làm tôi cảm thấy tinh thần lạc quan hơn. Trên chóp vách đá vôi trắng ở xóm Ruff tôi nhìn thấy những ngôi nhà xanh đỏ, nổi bật là cột cờ cao của biệt thự Trafalgar Lodge. Tới khoảng bốn giờ, sau khi đã câu thỏa thích tôi yêu cầu chủ thuyền lái quanh chiếc du thuyền đang nằm yên, dáng thanh tao tựa như con chim trắng đang sẵn sàng bay vụt đi. Scaife cho rằng nhìn hình dáng chiếc tàu thì biết nó được trang bị động cơ mạnh và có tốc độ cao.

Nhìn lên mũ của một thủy thủ đang hí húi chà bóng những bộ phận mạ đồng trên boong, tôi biết được con tàu tên là Ariadne. Tôi bắt chuyện với người thủy thủ, nghe anh ta trả lời bằng giọng Essex nhẹ nhàng. Một người khác đi tới và cho tôi biết mấy giờ bằng giọng Anh không lẫn vô đâu được. Người lái thuyền của chúng tôi bàn luận chuyện thời tiết với một trong hai thủy thủ, và trong ít phút thuyền chúng tôi áp sát mạn phải của mũi tàu.

Thình lình cả hai đều bỏ lơ chúng tôi và cắm đầu làm việc khi có một sĩ quan trên boong tàu bước lại gần. Anh ta còn trẻ, tướng sạch sẽ gọn gàng, lên tiếng hỏi chúng tôi câu cá có được không bằng thứ tiếng Anh rất sõi. Nhìn anh ta thì khỏi cần nghi ngờ gì, kiểu tóc hớt sát đầu cũng như hình dạng cổ áo và cà-vạt kia chắc chắn không phải xuất xứ từ nước Anh.

Tôi thấy yên tâm hơn, nhưng khi chúng tôi chèo thuyền về Bradgate nghi vấn trong tôi vẫn còn dai dẳng. Tôi nghĩ kẻ thù biết rõ mọi thông tin tôi có được là từ cuốn sổ của Scudder. Nếu bọn chúng nghi ngờ Scudder đã đánh hơi được địa điểm này chắc chắn chúng sẽ phải thay đổi kế hoạch, việc quan trọng tầm cỡ như vầy bọn chúng không thể liều được. Vấn đề là chúng biết được bao nhiêu về mức độ thông tin Scudder nắm được. Đêm qua tôi tỏ ra quả quyết về thói quen theo đúng kế hoạch của bọn Đức, nhưng nếu kẻ thù nghi ngờ tôi đang bám sát thì chúng chẳng dại gì mà không thay đổi phương án. Tôi tự hỏi lão già đêm qua có biết đã bị tôi nhận ra hay không. Tôi có cảm giác là không và dồn hết hy vọng vào đó. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ thấy lo lắng cho nhiệm vụ của mình như chiều hôm đó, trong khi lẽ ra phải vui mừng vì đã nắm chắc phần thắng trong tay.

Tại khách sạn, Scaife giới thiệu tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy chiếc tàu khu trục. Chúng tôi trao đổi mấy lời, rồi tôi quyết định đi quan sát biệt thự Trafalgar Lodge thêm một hai giờ.

Tôi tìm được chỗ xa hơn trên đồi, trong vườn một ngôi nhà trống. Từ đây tôi thấy nguyên sân tennis đang có hai người chơi. Người thứ nhất là ông già tôi đã thấy, người kia trẻ hơn, quanh bụng quấn chiếc khăn in hình huy hiệu của câu lạc bộ nào đó. Họ chơi rất hăng, kiểu như dân thành phố muốn vận động thật nhiều để được tháo mồ hôi. Nhìn họ chơi thật hồn nhiên, la hét cười đùa xong thì tạm ngưng để giải khát khi cô giúp việc bưng ra hai ly bia đựng trong khay. Tôi dụi mắt, bụng nghĩ trên đời này có ai điên rồ hơn mình hay không. Những kẻ ngồi máy bay và xe hơi săn đuổi tôi trên miền trảng cỏ hoang vu, và nhất là lão già chơi đồ cổ quỉ quái nọ toát ra vẻ hắc ám thấy rõ. Dễ thấy bọn chúng có liên quan tới lưỡi dao đã găm Scudder xuống sàn hay những âm mưu đen tối nhằm phá hoại hòa bình thế giới. Nhưng tại đây là hai công dân thật thà đang chơi trò thể thao vô hại, lát nữa đây sẽ ngồi ăn bữa tối với những câu chuyện tẻ nhạt về giá chứng khoán, tỉ số các trận đấu cricket hay những tin đồn vặt quanh xóm. Tôi giăng lưới để bắt diều hâu và chim ưng, hóa ra chỉ có hai con chim hoét mập lò dò vô bẫy.

Lát sau có người thứ ba tới, một thanh niên chạy xe đạp, bao gậy gôn đeo sau vai. Anh ta đi vòng ra sau nhà tới sân tennis và được hai người đang chơi chào đón ồn ào. Họ chọc ghẹo anh ta, lời lẽ đặc sệt kiểu Anh. Rồi ông mập dùng chiếc khăn lụa lau trán, tuyên bố phải đi tắm. Ông ta nói tôi nghe rõ từng chữ, chỉ có dân Anh chính cống mới nói năng kiểu đó:

- Bob à, chú phải đi ngâm mình trong nước nóng lâu lâu cho ốm bớt để đánh gôn lên tay chút. Ngày mai đấu chú sẽ chấp cháu mỗi lỗ một gậy!

Cả ba kéo vô nhà, còn tôi ở đó thấy mình sao mà ngu ngốc. Dứt khoát là tôi đã lầm. Cũng có thể mấy người này đang dàn cảnh, nhưng cho ai coi? Họ đâu thể nào biết tôi đang rình trong bụi đỗ quyên cách đó ba mươi yard. Tôi thật không tin được họ chỉ giả bộ đóng kịch mà không phải thực sự là ba người Anh rất bình thường, cư dân vùng ngoại ô, ham thể thao, có thể bị chê là chán ngắt nhưng hoàn toàn vô can.

Mặc dù vậy họ vẫn có ba người, một già, một tròn trịa, một gầy ốm tóc đen. Nhà của họ khớp với ghi chú của Scudder, và cách đó nửa dặm là một du thuyền trên có ít nhất một sĩ quan người Đức. Tôi nghĩ tới Karolides bị hạ sát và cả châu Âu rúng động, nghĩ tới những người tôi đã để lại ở Luân Đôn đang lo lắng ngóng đợi chuyện gì sắp xảy ra trong vòng vài giờ tới. Rõ ràng đâu đó đang có mưu đồ gây đại họa. Cho tới giờ phút này bọn Đá Đen đã thành công, và chỉ cần đêm nay nữa là chúng sẽ hoàn toàn chiến thắng.

Chỉ có một cách là cứ tiến tới như không hề có chút hoài nghi nào. Nếu tôi sai, thì ít ra tôi cũng sẽ can đảm đối mặt với sai lầm của mình. Cả đời tôi chưa lúc nào thấy miễn cưỡng như vậy. Tôi nghĩ thà bước vô hang ổ của bọn khủng bố tên nào tên nấy lăm lăm súng trong tay hay cầm súng đồ chơi đương đầu với sư tử tấn công, còn hơn phải bước vô mái nhà ấm cúng của ba người Anh vui nhộn kia mà bảo rằng họ đã bị lộ tẩy. Tôi sẽ bị cười biết chừng nào.

Đột nhiên tôi nhớ lại điều ông bạn Peter Pienaar đã kể cho nghe hồi còn ở Rhodesia. Tôi đã có lần nhắc tới Peter trong câu chuyện này. Ông ta là tay hướng đạo giỏi nhất mà tôi từng gặp. Trước khi chuyển qua làm ăn lương thiện, ông ta thường xuyên va chạm với pháp luật và bị truy nã gắt gao. Một lần bàn chuyện giả dạng ông ta có một lý thuyết khiến tôi có ấn tượng mạnh. Ông ta nói ngoại trừ những thứ tuyệt đối chắc chắn như vân tay thì hình dạng bên ngoài chẳng giúp nhận diện được bao nhiêu nếu kẻ trốn tránh biết cách. Ông ta cười chế nhạo những trò con nít như nhuộm tóc hay đeo râu giả. Theo Peter, điều quan trọng duy nhất là "môi trường".

Nếu một người lọt vô giữa khung cảnh hoàn toàn khác với khung cảnh anh ta bị bắt gặp lúc đầu, và quan trọng là nếu anh ta hòa vào môi trường mới, cư xử như thể chưa bao giờ rời khỏi môi trường đó, thì ngay cả những thám tử thượng thặng cũng bị lẫn lộn. Peter thường kể chuyện có lần ông ta mượn chiếc áo choàng đen vô nhà thờ cầm chung cuốn thánh ca với người đang truy lùng ông ta. Nếu như người kia đã từng thấy Peter ở chỗ đàng hoàng thì hẳn đã nhận ra ông ta rồi, nhưng người đó lúc trước chỉ thấy Peter cầm súng lục bắn bể bóng đèn trong quán rượu mà thôi.

Lần đầu suốt từ sáng tới giờ tôi mới cảm thấy được khích lệ thật sự nhờ nhớ lại lời của Peter. Ông ta là người khôn ngoan lão luyện, còn bọn người tôi đang săn đuổi cũng thuộc loại thượng thừa. Biết đâu bọn chúng đang dở những ngón Peter đã nói đến? Kẻ dại ráng thay đổi bề ngoài, còn người khôn giữ nguyên bề ngoài nhưng lại là con người khác.

Tôi lại nhớ tới cái qui tắc của Peter đã giúp tôi thoát chết lúc giả làm người phu vá đường: nếu anh đóng kịch thì phải tự thuyết phục mình chính là , như vậy mới nhập vai được lâu. Ván tennis lúc nãy có thể giải thích theo cách này. Bọn kia không cần phải đóng trò, chúng chỉ cần mở cửa bước vào một đời sống khác cũng tự nhiên như đời sống cũ. Nghe thì nhàm, nhưng theo lời Peter đó là bí quyết của những tên tội phạm lừng danh.

Đã gần tám giờ, tôi quay về khách sạn để dặn dò Scaife. Tôi bàn với ông ta việc sắp xếp toán hỗ trợ rồi ra ngoài đi dạo vì không còn bụng dạ nào để ăn tối. Tôi đi vòng khu sân gôn vắng ngắt tới đoạn vách đá phía bắc cách dãy biệt thự xa xa. Trên những con đường tươm tất mới mở tôi gặp nhiều người mặc quần vải trắng đi chơi tennis hoặc dạo biển về, một anh lính tuần duyên ở đài vô tuyến ra, và mấy người hóa trang thành con lừa hay anh hề đang trên đường về nhà. Trong bóng hoàng hôn xanh thẫm ngoài biển tôi thấy đèn bật sáng trên tàu Ariadne cũng như trên con tàu khu trục đậu nhích về phía nam. Bên kia cồn Cock có đèn lớn chiếu sáng lên những con tàu hơi nước đang tiến vào cửa sông Thames. Cảnh vật thanh bình và rất đỗi bình thường khiến tinh thần tôi mỗi lúc một dao động. Phải cương quyết lắm tôi mới cất bước tiến về biệt thự Trafalgar Lodge vào lúc chín giờ rưỡi.

Dọc đường tôi được khích lệ rất nhiều khi nhìn thấy con chó greyhound chạy lăng xăng sau gót chân một cô giữ trẻ. Tôi nhớ hồi ở Rhodesia tôi cũng có một con và có lần dẫn nó đi săn trong vùng đồi núi Pali. Hôm đó chúng tôi đi săn dê núi loại lông màu xám nâu, và chúng tôi đuổi theo một con nhưng rồi không thấy nó đâu nữa. Chó greyhound tìm mồi bằng mắt chớ không đánh hơi, và mắt tôi cũng khá tinh, nhưng con dê cứ như tan biến khỏi chỗ đó. Mãi sau tôi mới hiểu ra tại sao. Màu lông dê lẫn vào nền núi đá xám cũng giống như màu lông quạ chìm trong mây đen. Con dê không cần phải chạy đâu xa mà chỉ cần đứng yên rồi lẫn vào cảnh vật chung quanh.

Giữa lúc nhớ lại chuyện cũ tôi bỗng liên tưởng tới việc trước mắt. Bọn Đá Đen không cần phải chạy đâu xa mà chỉ lặng yên hòa lẫn vào khung cảnh chung quanh. Tôi đã truy đúng dấu vết của chúng, tôi ấn điều đó vô đầu và tự bắt mình không được quên. Peter Pienaar đã nói rất đúng.

Giờ này toán người của Scaife đã vào vị trí, nhưng tôi không nhìn thấy ai. Căn biệt thự chung quanh trống trải như một khu chợ, từ bên ngoài tha hồ quan sát. Nhà cách con đường chạy dọc đỉnh vách đá bằng một hàng rào cao ba feet, các cửa sổ tầng trệt đều mở, ánh đèn mờ cùng với tiếng nói chuyện rì rầm chỉ ra vị trí phòng ăn nơi mọi người đang chấm dứt bữa tối. Mọi thứ đều công khai đàng hoàng như ở hội chợ từ thiện. Tôi cảm thấy mình đang hành động như thằng ngốc, nhưng vẫn mở cổng bấm chuông.


Người từng ngang dọc những nơi xa xôi hiểm trở như tôi thường thấy thoải mái với hai hạng người tạm gọi là thượng lưu và hạ lưu. Chúng tôi hiểu họ, và họ cũng hiểu chúng tôi. Với những kẻ lang thang, người chăn bầy hay phu làm đường tôi cảm thấy hoàn toàn dễ chịu, và tôi cũng không có gì ngại ngần khi tiếp xúc với những người như Sir Walter và đồng sự của ông. Tôi không biết giải thích ra sao, nhưng đó là sự thật. Tuy nhiên chúng tôi không hiểu được lớp trung lưu sống đời sống sung túc mãn nguyện trong những khu biệt thự bên rìa thành phố. Chúng tôi không hiểu quan điểm và lề thói của họ, và chúng tôi ngại họ như ngại rắn độc. Khi cô giúp việc dáng thon gọn ra mở cửa, tôi gần như không nói ra lời.

Tôi hỏi ông Appleton và được mời vô nhà. Tôi dự định bước thẳng vô phòng ăn, hy vọng khi thấy tôi bất ngờ xuất hiện bọn họ sẽ giật mình nhận ra và nghi ngờ của tôi sẽ được xác nhận. Tuy nhiên gian ngoài ngăn nắp đã khiến tôi mất bình tĩnh. Gậy đánh gôn, vợt tennis, nón rơm và mũ lưỡi trai, găng tay xếp thành hàng, gậy chống để thành bó, tất cả đều là những vật dụng quen thuộc của hàng vạn gia đình tại nước Anh. Trên chiếc rương gỗ sồi cũ chất một chồng áo khoác và áo mưa xếp gọn gàng, chiếc đồng hồ tủ đứng tích tắc đếm giờ. Trên tường treo vài chiếc chảo làm ấm giường bằng đồng thau sáng bóng, một chiếc phong vũ biểu và một bức ảnh chụp Chiltern thắng cúp St. Leger. Nhà này nội thất trang hoàng kiểu chính thống không thua gì nhà thờ Anh Giáo. Khi cô giúp việc hỏi tên, tôi trả lời như cái máy và được mời vào phòng hút thuốc nằm bên tay phải.

Phòng hút thuốc lại còn khiến tôi nản hơn nữa. Tôi không kịp nhìn kỹ, nhưng phía trên kệ lò sưởi có mấy tấm ảnh đóng khung chụp những toán học sinh và sinh viên Anh. Tôi đã trấn tĩnh lại nên chỉ liếc sơ rồi chạy theo cô giúp việc. Nhưng đã quá trễ, cô ta đã vào phòng ăn và báo tên tôi cho chủ nhà khiến tôi lỡ mất cơ hội quan sát phản ứng của cả ba người.

Khi tôi bước vào phòng, ông già ngồi đầu bàn đứng dậy quay lại chào. Ông ta mặc đồ buổi tối, áo khoác ngắn thắt nơ đen. Người tôi đặt tên là ông mập cũng ăn mặc tương tự. Người thứ ba là anh chàng tóc đen mặc bộ vét vải serge màu xanh da trời, cổ áo trắng mịn, trên áo có huy hiệu của trường học hay câu lạc bộ nào đó.

Ông già tỏ ra hết sức lịch sự. Ông ta nói ngập ngừng:

- Ông Hannay phải không? Ông cần gặp tôi à? Hai người chờ một chút, tôi sẽ trở lại. Mời ông vô phòng hút thuốc nói chuyện tiện hơn.

Mặc dù không còn chút tự tin nào trong người tôi vẫn cương quyết không bỏ cuộc. Tôi kéo ghế ngồi xuống và nói:

- Tôi nghĩ chúng ta đã gặp nhau rồi, và ông cũng biết rõ việc của tôi là gì.

Đèn trong phòng chỉ mờ mờ, nhưng tôi nhìn mặt bọn họ thấy tất cả đều ngớ ra. Ông già nói:

- Cũng có thể. Nhưng trí nhớ tôi kém lắm, xin ông vui lòng cho biết mục đích tới đây vì tôi thật sự không được rõ.

Tôi nói mà trong lòng tự cảm thấy mình đang nói càn:

- Được rồi, tôi tới đây để nói cho biết các ông đã lộ tẩy. Tôi có lệnh bắt giữ cả ba người ở đây.

Ông già lộ vẻ kinh ngạc:

- Bắt giữ! Trời đất, tội gì mà bắt?

- Tội giết Franklin Scudder ở Luân Đôn vào ngày hai mươi ba tháng rồi.

Ông già sững người nói:

- Tôi chưa bao giờ nghe cái tên đó.

Một trong hai người kia lên tiếng:

- Đó là vụ án mạng ở Portland Place, tôi có coi báo. Trời ạ, ông điên hay sao? Ông ở đâu tới đây?

Tôi đáp:

- Ở sở cảnh sát Luân Đôn.

Một phút im phăng phắc. Ông già nhìn trân xuống đĩa, tay hết cầm hạt dẻ lên lại bỏ xuống bàn, rõ là thái độ bối rối hoang mang của người vô can thình lình bị cáo buộc. Sau đó ông mập lên tiếng, giọng hơi lắp bắp như thể vừa nói vừa tìm chữ:

- Chú cứ bình tĩnh. Đây chỉ là chuyện lầm lẫn nực cười nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Giải quyết việc này cũng dễ thôi. Chúng ta có thể chứng minh mình vô can kia mà. Cháu có bằng chứng ngày 23 tháng năm đang ở nước ngoài, Bob thì làm việc ở nhà dưỡng lão. Hôm đó chú có mặt ở Luân Đôn, nhưng chú hãy giải thích rõ hơn chú làm gì ở đó đi.

- Ừ cháu nói đúng đó Percy! Dĩ nhiên là dễ rồi. Ngày hăm ba là sau hôm đám cưới của Agatha. Để coi chú làm gì. Buổi sáng chú từ Woking lên, ăn trưa ở câu lạc bộ với Charlie Symons. Rồi sau đó... à phải rồi, sau đó chú ăn tối với nhà Fishmonger. Chú nhớ là vì món đồ uống làm chú khó chịu, sáng hôm sau thấy bệnh trong người. Hừ, bữa đó chú còn đem hộp xì gà này về mà.

Ông ta chỉ một vật trên bàn và cười to nhưng gượng gạo. Chàng thanh niên lễ phép nói với tôi:

- Thưa ông, tôi nghĩ có sự lầm lẫn ở đây, rồi ông sẽ thấy. Chúng tôi là công dân tốt, chúng tôi muốn giúp cơ quan pháp luật chứ không muốn nhìn thấy cảnh sát phạm sai lầm. Có phải không chú?

Ông già giọng nghe đã bình tĩnh lại, trả lời:

- Dĩ nhiên rồi Bob. Chúng ta sẽ hết sức giúp đỡ nhà chức trách. Nhưng... việc này thật là quá lắm, chú không tin được!

Ông mập nói:

- Cô Nellie chắc sẽ cười dữ lắm. Cô ấy vẫn nói chú sẽ chết vì buồn chán vì chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra với chú. Còn bây giờ thì đã có, lại là chuyện hấp dẫn ly kỳ mới ghê chứ.

Nói tới đây ông ta cười rộ. Ông già đáp:

- Ừ đúng đó. Cứ nghĩ mà coi! Chuyện này đem kể ở câu lạc bộ là có lý lắm. Ông Hannay à, lẽ ra nghe ông nói tôi phải tức giận mới đúng, tại vì tôi vô tội mà. Nhưng tôi thấy buồn cười quá! Ông làm tôi hết hồn, nhưng thôi không sao. Mặt mày ông nghiêm trọng quá làm tôi cứ tưởng mình bị mộng du rồi đi giết người lúc nào không hay chứ!

Tất cả đều rất thật, không thể nào đóng kịch được. Tôi cảm thấy trong lòng xụi lơ, chỉ muốn xin lỗi và rút lui. Nhưng tôi tự nhủ sẽ không bỏ cuộc cho dù cả nước có cười tôi đi nữa. Ánh đèn cầy trên bàn ăn không sáng rõ, và để che đậy vẻ bối rối tôi bật dậy bước lại cửa phòng bật điện lên. Cả ba người chớp chớp mắt vì chói trong lúc tôi đứng quan sát vẻ mặt của họ.

Tôi chẳng kết luận được gì. Một người già hói đầu, một người mập tròn, người còn lại ốm, tóc đen. Không có gì để phủ nhận hoặc xác nhận họ là ba tên đã săn đuổi tôi ở Scotland. Tôi đã nhìn vào mắt hai tên lúc giả làm phu sửa đường và tên thứ ba lúc giả làm Ned Ainslee, nhưng tôi không cắt nghĩa được tại sao với trí nhớ dai và óc quan sát nhạy bén của mình tôi vẫn không thể dứt khoát hẳn một bề. Mấy người này có vẻ thật sự như họ nói lắm, nhưng tôi lại không dám chắc chắn.

Trong căn phòng ăn sáng sủa vui mắt, tường chưng tranh khắc và bức ảnh một bà cụ đeo yếm treo phía trên lò sưởi, tôi không tìm thấy gì có thể liên hệ ba người này với bọn tội phạm liều mạng trên vùng trảng cỏ hoang sơ. Bên cạnh tôi có hộp đựng thuốc lá bằng bạc, chữ khắc trên hộp cho biết đó là phần thưởng thi đánh gôn trao tặng ông Percival Appleton, thành viên câu lạc bộ St. Bede. Tôi phải tâm niệm lời khuyên của Peter Pienaar mới khỏi chạy vụt ra đường cho xong.

Ông già lễ phép hỏi:

- Ông quan sát kỹ vậy đã yên tâm chưa, thưa ông?

Tôi không biết nói sao. Ông ta tiếp:

- Tôi mong ông sẽ làm theo đúng trách nhiệm mà ngưng cái vụ kỳ khôi này lại. Tôi không phải than phiền gì, nhưng người đàng hoàng thì cũng thấy khó chịu.

Tôi lắc đầu. Chàng thanh niên nói:

- Trời ơi, tôi thấy hơi quá đáng rồi đó!

Ông mập hỏi:

- Ông có định đưa chúng tôi về đồn hay không? Có lẽ đó là cách hay nhất để giải quyết chuyện này, nhưng tôi nghĩ chắc ông không muốn làm việc với cảnh sát địa phương. Tôi có quyền yêu cầu được coi lệnh bắt, nhưng tôi không muốn bắt bẻ ông làm gì vì ông chỉ thi hành nhiệm vụ của mình mà thôi. Tuy nhiên phải công nhận vụ này nó bất tiện kinh khủng. Bây giờ ông tính sao?

Chỉ có hai cách, hoặc là kêu người vô nhà bắt giữ họ, hoặc nhận mình sai và rút lui. Tôi cảm thấy bị nơi này mê hoặc bằng vẻ hiền lành vô can quá hiển nhiên của nó, bằng nét bối rối và lo lắng rất đỗi thật thà trên gương mặt của cả ba người. Tôi rên thầm trong bụng "Ôi Peter Pienaar" mà thiếu điều tự mắng mình ngu dại rồi xin lỗi tất cả.

Ông mập tiếp:

- Trong khi chờ đợi tôi đề nghị chơi một ván bài bridge để ông Hannay có thì giờ suy nghĩ. Bữa nay chúng ta có đủ bốn người rồi. Thưa ông có chơi bài không?

Tôi nhận lời như thể được mời chơi một ván ở câu lạc bộ. Tôi đã bị toàn bộ sự việc mê hoặc. Chúng tôi vô phòng hút thuốc, tại đó một bàn đánh bài đã bày ra, và tôi được mời thuốc với rượu. Như trong giấc mơ tôi ngồi vào bàn. Cửa sổ đang mở, ánh trăng vàng như ngọn triều lớn tràn ngập mặt biển và vách đá. Trong đầu tôi cũng đầy những ý nghĩ kỳ quặc. Cả ba đã bình tĩnh lại và nói chuyện rôm rả, dùng nhiều tiếng lóng như thường nghe tại các câu lạc bộ đánh gôn. Riêng tôi lúc đó nhíu mày, mắt đảo tới đảo lui nhìn chắc lạ lắm.

Tôi đánh chung phe với chàng thanh niên tóc đen. Thường ngày tôi chơi bài bridge cũng khá, nhưng đêm đó tôi đánh dở tệ. Họ biết đã làm tôi bối rối nên càng thư giãn hơn. Tôi vẫn quan sát gương mặt họ nhưng chẳng thấy gì mới. Không phải bề ngoài của họ khác bọn kia, mà họ là những người khác. Tôi bám víu vào lời của Peter Pienaar một cách tuyệt vọng.


Thình lình tôi bừng tỉnh.

Ông già hạ tay xuống để châm xì gà. Nhưng ông ta không cầm điếu thuốc lên liền mà ngồi dựa ngửa ra một lát, ngón tay gõ gõ lên đầu gối.

Chính là cử chỉ tôi vẫn nhớ rõ khi đứng trước mặt lão ta trong khu trại giữa vùng trảng cỏ, ngay trước họng súng của hai tên giúp việc.

Chỉ một chi tiết nhỏ thoáng qua giây lát, và khả năng cả ngàn chọi một là tôi sẽ không nhìn thấy vì bận dán mắt vào những lá bài. Nhưng tôi đã nhìn thấy, và trong thoáng chốc mọi việc đều trở nên rõ ràng. Đầu óc tôi như có bức màn tối được vén lên, tôi nhận ra cả ba tên một cách trọn vẹn và tuyệt đối chắc chắn.

Đồng hồ phía trên lò sưởi điểm mười giờ.

Trước mắt tôi ba gương mặt đã thay đổi và bí mật của chúng lộ ra. Gã thanh niên chính là tên giết người. Tôi nhìn thấy vẻ tàn độc trên khuôn mặt mới đây tôi còn cho là vui tính. Tôi dám chắc con dao của hắn đã găm Scudder xuống sàn nhà. Chính những kẻ giống như hắn đã nã đạn vô người Karolides.

Nét mặt của tên mập như nhòa ra rồi thành hình trở lại. Hắn không có gương mặt nào mà chỉ có cả trăm chiếc mặt nạ tùy ý chọn lựa. Hắn phải là loại diễn viên thượng thặng. Có lẽ hắn là Lord Alloa vào đêm qua mà cũng có thể không, điều đó không quan trọng. Tôi tự hỏi có phải chính hắn đã truy ra Scudder và để lại tấm danh thiếp hay không. Scudder có nói hắn bị ngọng, và tôi có thể tưởng tượng ra chỉ cần giả thêm tật nói ngọng là hắn có thể khiến nạn nhân khiếp hãi như thế nào.

Nhưng lão già mới là đầu sỏ trong đám. Lão là kẻ đầy mưu trí, lạnh lùng, tỉnh táo, tính toán, nhẫn tâm như một cái búa máy. Lúc này mắt tôi đã mở ra, tôi không hiểu khi trước mình thấy lão ta phúc hậu ở chỗ nào. Cằm lão cứng như thép tôi, đôi mắt sáng như mắt loài chim dữ, không có tính người. Tôi vẫn tiếp tục chơi bài mà nỗi căm ghét mỗi lúc một dâng cao trong lòng muốn nghẹn thở, đến nỗi khi tên chơi cùng phe lên tiếng tôi không trả lời được. Tôi không thể ngồi với bọn chúng được lâu nữa.

Lão già nói:

- Ôi Bob! Nhìn đồng hồ kìa. Cháu lo đi đón xe lửa là vừa.

Lão quay qua tôi nói thêm, giọng nghe giả tạo không chịu được:

- Tối nay Bob phải lên Luân Đôn.

Tôi nhìn đồng hồ thấy đã gần mười rưỡi. Tôi nói:

- Tôi rất tiếc, nhưng Bob phải hoãn chuyến đi lại.

Gã thanh niên nói:

- Sao chán quá vậy! Tôi cứ tưởng ông dẹp chuyện này rồi chứ. Tôi phải đi có chuyện rất cần. Để tôi cho ông địa chỉ, hay ông cần giữ bất cứ cái gì làm bảo đảm thì tôi sẽ đưa.

Tôi đáp:

- Không được, anh phải ở lại.

Tôi nghĩ nghe vậy hẳn bọn chúng đã hiểu ra không còn vớt vát gì được nữa. Chỉ có thuyết phục cho tôi tin mình đã sai lầm thì chúng mới có cơ hội thoát, nhưng chúng đã không làm được. Tuy nhiên lão già lại nói:

- Tôi sẽ nộp tiền tại ngoại cho cháu tôi, vậy được chứ thưa ông Hannay?

Giọng nói lịch sự dễ nghe của lão đã có chút sạn ở trong, hay là tôi chỉ tưởng tượng ra? Chắc tôi không lầm, vì tôi nhìn thấy mí mắt lão kéo xuống như mắt diều hâu, hình ảnh này gắn liền với cảm giác sợ hãi đã in sâu vào tâm trí, làm sao tôi quên được.

Tôi bèn huýt còi.


Ngay lập tức đèn đóm trong nhà tắt phụt. Tôi bị hai cánh tay cứng cáp ôm ngang hông, ngáng chặt chỗ miệng túi dắt súng. Có tiếng kêu to:

- Schnell, Franz! Das Boot, das Boot!

Dưới ánh trăng tôi nhìn thấy hai người trong toán hỗ trợ phóng ra sân cỏ. Gã thanh niên vọt tới nhảy qua cửa sổ, vượt luôn hàng rào mà không ai kịp ngăn lại. Tôi vật lộn với lão già trong lúc căn phòng chen đầy bóng người. Tôi có thấy tên mập bị tóm cổ, nhưng lúc đó mắt tôi chỉ chú ý việc đang xảy ra bên ngoài. Gã Franz đang phóng qua đường tới chỗ rào lối cầu thang dẫn xuống bãi biển. Có người rượt theo nhưng coi bộ không ăn thua vì cổng rào đã khóa lại sau lưng hắn. Hai tay siết họng lão già, tôi đứng nhìn chăm ra ngoài trong khoảng thời gian vừa đủ để một người xuống hết dãy bậc thang tới bãi biển.

Thình lình tên tù nhân của tôi vùng ra nhào tới vách tường. Tôi nghe một tiếng cạch như thể có ai kéo một thứ cần điều khiển, rồi có tiếng ì ầm xa xa dưới mặt đất. Qua cửa sổ tôi nhìn thấy một đám bụi đá vôi cuộn lên từ chỗ cầu thang.

Có người bật đèn lên trở lại. Lão già mắt rừng rực nhìn tôi kêu to:

- Nó thoát rồi, tụi mày không theo kịp nó đâu... Nó đi mất rồi... Chiến thắng rồi... Der schwartze Stein ist in der Siegeskrone.

Trong đôi mắt lão già không chỉ là vẻ đắc thắng thường tình. Đôi mắt đó lúc trước mí kéo xuống che như mắt loài chim săn mồi, thì bây giờ chúng cũng rực lên niềm kiêu hãnh của loài chim ưng. Bên trong tôi nhìn thấy ngọn lửa cuồng tín cháy mãnh liệt, và lần đầu tiên tôi mới nhận ra mình đã phải đương đầu với kẻ thù khủng khiếp là dường nào. Người này không phải là kẻ gián điệp tầm thường. Cách thức của lão tuy bẩn thỉu gian ác, nhưng lão là kẻ yêu nước.

Đợi chiếc còng đã khóa lại trên cổ tay lão già tôi mới nói với lão lời cuối:

- Tôi mong Franz cũng đừng quá buồn vì "chiến thắng" của anh ta. Xin nói ông hay là chúng tôi đã chiếm giữ tàu Ariadne cả tiếng đồng hồ rồi.


Như mọi người đều biết, bảy tuần sau đó chiến tranh nổ ra. Tôi gia nhập quân đội ngay tuần đầu tiên và được phong thẳng hàm đại úy nhờ đã có kinh nghiệm trong chiến tranh Matabele. Nhưng tôi nghĩ tôi đã hoàn thành công tác quan trọng nhất của mình từ trước khi khoác lên người bộ quân phục.

HẾT

Ba mươi chín bậc thang - Chương 9: Truy tìm sào huyệt

Ông quan chức Bộ Hải Quân la to:

- Nói bậy!

Sir Walter đứng dậy ra khỏi phòng trong lúc chúng tôi nhìn ngây xuống bàn. Mười phút sau ông quay lại, vẻ mặt nghiêm trọng.

- Tôi mới nói chuyện với Alloa. Ông ta đang ngủ bị lôi khỏi giường, cau có lắm. Ăn tối ở nhà Mulross xong ông ta về thẳng nhà, không đi đâu hết.

Tướng Winstanley xen vào:

- Nhưng chuyện quá vô lý. Không lẽ cái người đó tới đây ngồi ngay cạnh tôi gần nửa tiếng đồng hồ mà tôi không nhận ra là ông ta giả mạo? Chắc Alloa lẩm cẩm rồi quên khuấy mất đó thôi.

Tôi nói:

- Khôn là ở chỗ đó. Quí vị mải lo chuyện khác nên không để ý, mặc nhiên chấp nhận kẻ đó là Lord Alloa. Nếu là ai khác thì có lẽ quí vị đã nhìn kỹ hơn, nhưng Lord Alloa có mặt tại đây là chuyện đương nhiên nên không ai nghi ngờ gì.

Ông tướng Pháp lên tiếng, nói rất chậm nhưng tiếng Anh của ông ta khá thạo:

- Anh này nói đúng, giải thích tâm lý nghe phải lắm. Kẻ thù của chúng ta không có dại dột đâu.

Ông ta hướng cặp lông mày rậm về phía mọi người đang có mặt.

- Để tôi kể chuyện này quí vị nghe, xảy ra ở Senegal cách đây đã nhiều năm. Hồi đó tôi đóng ở đồn xa và hay ra sông câu cá chép để giết thì giờ. Tôi có con ngựa cái nhỏ dùng chở đồ ăn trưa, loại ngựa khỏe lông nâu xám lúc xưa hay bán ở chợ Timbuktu. Buổi sáng kia tôi đang mê câu thì con ngựa trở chứng bồn chồn không yên, cứ hí to rồi lại dậm chân thình thịch. Tôi lên tiếng dỗ nó nhưng đầu óc còn mải miết chuyện câu cá. Nó được cột vô gốc cây cách đó hai chục yard tôi liếc qua vẫn nhìn thấy, lúc đó tôi nghĩ vậy. Chừng hai tiếng sau tôi thấy đói. Tôi gom hết cá bỏ vô bao vải dầu rồi rà dây câu đi xuôi dòng lại chỗ con ngựa. Tới nơi tôi ném bao cá lên lưng ngựa...

Ông ta ngừng kể, nhìn quanh.

- Tôi nghe mùi lạ mới giật mình quay đầu lại thì thấy con sư tử cách có ba feet, thứ sư tử già ăn thịt người trong làng ai cũng khiếp sợ. Sau lưng nó con ngựa chỉ còn là một đống máu, xương với da...

Tôi cũng có đi săn nhiều nên nghe chuyện thật hay không là biết liền. Tôi hỏi:

- Rồi sao?

- Tôi nhét nguyên cái cần câu vô miệng nó rồi rút liền súng ngắn ra. Mấy người giúp việc cũng vừa cầm súng trường chạy kịp tới. Nhưng nó cũng để lại dấu trên người tôi đây.

Ông ta giơ bàn tay cụt ba ngón lên rồi tiếp:

- Quí vị nghĩ coi, con ngựa đã chết hơn một giờ, rồi từ lúc đó trở đi con sư tử kiên nhẫn rình tôi suốt. Tôi không nhìn thấy nó giết con ngựa vì đã quen nghe tiếng ngựa dở chứng, không để ý nữa. Tôi cũng không nhận thấy con ngựa đã biến mất, vì tri giác tôi chỉ ghi nhận nó là một khối nâu nâu, mà con sư tử cũng màu nâu. Ở chỗ hoang vu giác quan con người thường rất nhạy mà tôi còn lầm như vậy, huống gì bây giờ chúng ta đang sống ở thành thị, đầu óc bận rộn đủ chuyện?

Sir Walter gật đầu. Không ai nói được gì để cãi lại ông ta. Tướng Winstanley lại tiếp:

- Tôi thật không hiểu. Mục đích của chúng là lấy cắp tài liệu mà chúng ta không hay biết gì cả. Nhưng chỉ cần một người ở đây nhắc tới buổi họp hôm nay với Alloa là âm mưu lộ ra hết còn gì.

Sir Walter cười khô khốc.

- Bọn chúng quả rất tinh khôn khi lựa Alloa để giả dạng. Làm gì có chuyện có ai nhắc tới cuộc họp đêm nay với Alloa hoặc là ông ta đề cập tới việc này với chúng ta?

Tôi nhớ ra ngài tư lệnh hải quân có tiếng lầm lì và cộc cằn. Tướng Winstanley lại nói:

- Còn chỗ này nữa, tên gián điệp đó tới đây để được cái gì? Làm sao hắn nhớ cho hết trong đầu cả xấp tài liệu toàn hình vẽ với những cái tên lạ hoắc?

Ông tướng Pháp trả lời:

- Cái đó không khó. Một điệp viên giỏi được huấn luyện để có trí nhớ như máy ảnh. Các vị có để ý hắn ta không nói năng gì mà cứ lật đi lật lại xấp tài liệu không? Tôi cho rằng hắn ta đã nhớ như in trong đầu từng chi tiết một. Hồi trẻ tôi cũng làm được như vậy.

Sir Walter rầu rĩ nói:

- Vậy chỉ còn cách thay đổi phương án thôi.

Gương mặt Whittaker sa sầm. Ông ta hỏi:

- Ông có kể đầu đuôi cho Lord Alloa nghe chưa? Chưa à? Tôi không tuyệt đối chắc chắn, nhưng theo tôi chúng ta không thể thay đổi gì nhiều trong phương án trừ phi thay đổi luôn địa lý nước Anh.

Royer lại lên tiếng:

- Còn chuyện này nữa. Lúc hắn có ở đây tôi đã không ngại nói ra nhiều việc. Tôi có đề cập tới các kế hoạch quân sự bên phía chính phủ Pháp vì tôi được phép tiết lộ ở mức đó. Những tin tức đó rất quí giá đối với kẻ thù của chúng ta. Thưa quí vị, chỉ có một cách là chúng ta phải bắt giữ ngay tên gián điệp lúc nãy luôn với đồng bọn của hắn.

Tôi thốt lên:

- Trời đất! Nhưng chúng ta không có đầu mối nào hết!

Whittaker nói:

- Giờ này có lẽ chúng đã gởi tin về bằng đường bưu điện rồi.

Ông tướng Pháp nói:

- Không đâu, tại ông không hiểu thói quen của bọn điệp viên. Chúng tự tay giao tin, tự tay nhận phần thưởng. Bên Pháp chúng tôi hiểu bọn này mà. Chúng ta vẫn còn cơ hội, mes amis. Bọn chúng chắc chắn phải vượt biển, cho nên chúng ta phải lục soát tàu bè và canh phòng các bến cảng. Đây là việc tối quan trọng cho cả nước Pháp lẫn nước Anh.

Thái độ nghiêm trang và sáng suốt của Royer khiến chúng tôi bình tĩnh lại. Ông ta là người biết hành động trong lúc kẻ khác còn đang bối rối. Nhưng trên mỗi gương mặt tôi không nhìn thấy chút hy vọng nào, mà chính tôi cũng không cảm thấy lạc quan gì hơn. Trên đảo quốc này có năm mươi triệu người sinh sống, làm sao chỉ trong vòng hơn chục tiếng chúng tôi có thể tìm ra ba tên tội phạm tinh khôn hạng nhất châu Âu?



Thình lình tôi nảy ra một ý. Tôi kêu to với Sir Walter:

- Cuốn sổ của Scudder đâu? Mau lên, tôi vừa nhớ ra cái này!

Ông mở khóa hộc bàn đưa cho tôi cuốn sổ. Tôi lật ra tìm rồi đọc:

- Ba mươi chín bậc, đã đếm kỹ, nước lớn 10 giờ 17 phút tối.

Ông quan chức Bộ Hải Quân nhìn tôi như thể tôi bị điên. Tôi nói to:

- Quí vị không thấy sao, đây chính là đầu mối. Scudder biết rõ hang ổ của bọn kia, biết chúng sẽ rời nước Anh từ chỗ nào, có điều ông ta không nói rõ ra. Bọn chúng sẽ đi ngày mai, địa điểm là một nơi nước lớn lúc 10 giờ 17 phút.

Ai đó nói:

- Có thể chúng đã đi tối nay rồi.

- Bọn này thì không đâu. Chúng có cách thức hoạt động bí mật riêng, không gấp gáp. Tôi biết tánh người Đức, dù gì cũng phải làm theo đúng kế hoạch. Làm sao kiếm ra bảng giờ thủy triều đây?

Whittaker tươi lên nói:

- Vậy cũng còn hy vọng. Chúng ta hãy về đằng Bộ Hải Quân.

Chúng tôi lên hai chiếc xe đang chờ trước cửa, ngoại trừ Sir Walter lên đường tới sở cảnh sát để "huy động giám đốc Macgillivray" như lời ông nói.

Chúng tôi bước qua những hành lang vắng ngắt, những gian phòng rộng trống trơn chỉ có mấy phụ nữ đang lau chùi dọn dẹp, tới một phòng nhỏ tường kín sách với bản đồ. Một nhân viên thường trực được gọi tới và nhanh chóng lấy ra cuốn thông tin về thủy triều của Bộ Hải Quân. Tôi ngồi xuống bàn còn các vị khác xúm quanh, vì không hiểu thế nào tôi lại trở thành chủ động trong vụ này.

Không ăn thua gì. Sách kê tới mấy trăm địa điểm, trong đó cũng phải năm chục địa điểm có triều cường lúc mười giờ mười bảy. Phải tìm cách thu hẹp phạm vi tìm kiếm hơn nữa.

Tôi ôm đầu suy nghĩ. Thế nào cũng phải có cách giải câu đố này. Scudder nói bậc là ý nghĩa gì? Tôi nghĩ tới bậc thang trong ụ tàu, nhưng nếu vậy thì đâu cần nêu ra con số là bao nhiêu bậc. Phải là nơi nào có nhiều cầu thang, trong đó có một cầu thang phân biệt ra bằng con số ba mươi chín bậc.

Tôi nảy ra một ý và lục tìm hết thảy lịch trình tàu bè. Hoàn toàn không có tàu nào rời bến lúc mười giờ mười bảy phút để chạy vô lục địa.

Tại sao nhấn mạnh tới nước lớn? Nếu là bến cảng thì ắt là cảng nhỏ, phụ thuộc vào thủy triều. Bằng không thì tàu phải to lắm. Nhưng giờ đó không có tàu xuất phát, mà tôi cũng không tin bọn chúng sẽ đáp tàu lớn từ một bến cảng thông thường. Như vậy nơi đó phải là cảng nhỏ hoặc là không phải bến cảng.

Nếu là cảng nhỏ thì Scudder đã không nhắc tới mấy bậc thang. Tôi chưa thấy bến cảng nào có cầu thang. Địa điểm chúng tôi cần tìm phải được định rõ bằng một cầu thang, và tại đó triều cường xảy ra lúc mười giờ mười bảy phút. Nhìn chung tôi nghĩ nơi đó không nằm trong vịnh mà giáp thẳng với biển lớn. Tuy nhiên cái cầu thang cứ làm tôi thắc mắc.

Tôi lại nghĩ theo phạm vi rộng hơn. Nếu có kẻ muốn đi gấp qua nước Đức bằng đường nhanh chóng và bí mật, thì kẻ đó sẽ lên tàu ở đâu? Không phải từ mấy cảng lớn. Cũng không phải từ eo biển Manche, từ bờ phía tây hay là Scotland nếu hắn xuất phát từ Luân Đôn. Tôi đo khoảng cách trên bản đồ và cố gắng tự đặt mình vào vị trí của kẻ thù. Nếu là tôi thì tôi sẽ nhắm đích đến ở Ostend, Antwerp hay là Rotterdam, và tôi sẽ chọn địa điểm xuất phát trên bờ phía đông trong khoảng từ Cromer tới Dover.

Tất cả những điều trên chỉ là phỏng đoán sơ sài, không có gì là tài tình hay theo phương pháp chặt chẽ. Tôi không phải Sherlock Holmes. Tuy nhiên tôi có một thứ bản năng về những chuyện loại này. Cũng khó giải thích, thường tôi vẫn vận dụng trí óc cho tới khi hết đường suy nghĩ thì đoán, mà tôi đoán thường ít khi sai.

Tôi ghi lại những kết luận của mình trên tờ giấy mang tiêu đề của Bộ Hải Quân như sau:


KHÁ CHẮC CHẮN

(1) Địa điểm có nhiều cầu thang. Chỉ có cầu thang cần tìm mới cao ba mươi chín bậc.

(2) Triều cường lúc 10:17 tối. Tàu chỉ có thể ra khơi lúc triều cường.

(3) Không phải là bậc ụ tàu, do đó địa điểm rất có thể không phải là bến cảng.

(4) Không có chuyến tàu thường xuyên nào khởi hành lúc 10:17. Phương tiện di chuyển phải là tàu chở hàng thuê (ít có khả năng), du thuyền hoặc tàu đánh cá.

Tới đây lý luận của tôi chấm dứt. Tôi viết thêm một danh sách thứ hai đề là "Suy đoán", nhưng tôi cảm thấy cũng chắc chắn như danh sách đầu.


SUY ĐOÁN

(1) Địa điểm không nằm trong vịnh mà giáp thẳng với biển lớn.

(2) Tàu nhỏ, loại tàu kéo lưới, du thuyền hoặc xuồng máy cỡ lớn.

(3) Địa điểm nằm trên bờ phía đông giữa Cromer và Dover.

Kể cũng lạ là tôi lại ngồi đó, vây quanh là một vị bộ trưởng, một thống chế, hai quan chức chính phủ cao cấp với một ông tướng Pháp nhìn chăm chú trong lúc tôi cố giải một bí mật sinh tử từ những dòng ghi chép nguệch ngoạc của một người đã qua đời.

Sir Walter đã quay trở lại, và ít phút sau Macgillivray tới nơi. Ông ta đã ra lệnh cho các cảng và nhà ga canh chừng ba tên có nhân dạng như tôi đã tả với Sir Walter. Tuy nhiên ông ta cũng như những người khác không hy vọng gì mấy. Tôi nói:

- Theo tôi thì như vầy. Chúng ta phải tìm một địa điểm có nhiều cầu thang dẫn xuống bãi biển, trong đó có một cầu thang cao ba mươi chín bậc. Tôi nghĩ chỗ đó giáp thẳng ra biển chớ không phải nằm khuất trong vịnh, bờ có vách đá cao, nằm trong khoảng từ vịnh Wash tới biển Manche. Ngoài ra ở đó triều cường đêm mai xảy ra lúc mười giờ mười bảy phút.

Thình lình tôi nảy ra một ý.

- Có thể tìm được viên chức nào biết rành bờ biển phía đông không, kiểu như thanh tra tuần duyên chẳng hạn?

Whittaker nói có một người nhà ở Clapham. Ông ta ra xe để đi đón người đó, chúng tôi còn lại trong căn phòng nhỏ thì nghĩ gì nói nấy. Tôi châm ống điếu và rà kỹ lại mọi chuyện cho tới khi đầu óc mệt đừ.

Khoảng một giờ sáng viên chức tuần duyên tới nơi. Ông ta nhìn lớn tuổi, đàng hoàng, có vẻ là cựu sĩ quan hải quân, thái độ hết sức kính nể đối với nhóm người có mặt trong phòng. Tôi để ông bộ trưởng quốc phòng nói chuyện với ông ta vì ngại nếu tôi hỏi ông ta sẽ nghĩ tôi lấn lướt.

- Chúng tôi cần ông cho biết nơi nào dọc bờ phía đông có vách đá cao và có nhiều bậc dẫn xuống bãi biển.

Ông ta suy nghĩ một chút.

- Thưa, ý ngài muốn nói bậc kiểu gì? Có nhiều nơi đường xẻ trong vách đá, thành ra hầu như đường nào cũng có một hay hai bậc. Hay ngài muốn nói tới cầu thang thường, từ đầu tới cuối toàn là bậc mà thôi?

Ông bộ trưởng quay qua nhìn tôi. Tôi bèn nói:

- Ý chúng tôi là cầu thang thường.

Ông ta nghĩ ngợi một hai phút.

- Tôi không nhớ ở đâu có. À khoan đã, có một chỗ trong quận Norfolk tên là Brattlesham, bên cạnh sân gôn có hai cầu thang để người chơi leo xuống lượm banh.

Tôi đáp:

- Không phải chỗ đó.

- Hay là mấy phố đi dạo gần bãi biển? Chỗ nghỉ mát nào cũng có.

Tôi lắc đầu:

- Phải là chỗ vắng hơn kìa.

- Vậy thì tôi chịu. Cũng có một chỗ tên là Ruff...

Tôi hỏi:

- Chỗ nào?

- Chỗ núi đá vôi nhô ra biển trong quận Kent, gần Bradgate. Trên đỉnh có nhiều biệt thự, một số có cầu thang dẫn xuống bãi biển riêng. Khu đó toàn dân khá giả, ít giao du với chung quanh.

Tôi lật cuốn bảng giờ thủy triều ra tìm chỗ nói về Bradgate. Triều cường ở đó xảy ra lúc 10:27 tối ngày 15 tháng sáu. Tôi hồi hộp nói to:

- Chúng ta theo đúng dấu vết rồi. Làm sao tìm được giờ nước lớn ở Ruff?

Viên chức tuần duyên trả lời:

- Tôi biết. Có lần tôi được người bạn cho mượn căn nhà ngay khu đó cũng vào đúng tháng này, và buổi tối tôi hay ra khơi câu cá. Nước lớn tại đó tới sớm hơn Bradgate mười phút.

Tôi xếp sách nhìn quanh.

- Thưa quí vị, nếu một trong số cầu thang nói trên có ba mươi chín bậc thì chúng ta đã giải được bí mật. Thưa Sir Walter, tôi cần mượn đỡ chiếc xe của ông với cuốn bản đồ đường sá. Tôi cũng cần nói chuyện với ông Macgillivray mười phút để bàn kế hoạch cho ngày mai.

Tôi tự tiện nắm quyền chủ động như vậy cũng ẩu, nhưng không ai lấy làm khó chịu vì dù sao tôi cũng đã dính líu ngay từ đầu. Vả lại những nhân vật quan trọng này thừa thông minh để thấy tôi có kinh nghiệm lo liệu những việc khó. Tướng Royer mở lời ủy thác cho tôi. Ông ta nói:

- Riêng tôi rất tin tưởng giao việc này cho anh Hannay.

Đồng hồ chỉ ba giờ rưỡi khuya lúc tôi phóng xe vụt qua những bờ rào trăng rọi sáng ven đường trong quận Kent. Ngồi cạnh tôi là người thuộc cấp giỏi nhất của giám đốc cảnh sát Macgillivray.

Ba mươi chín bậc thang - Chương 8: Kẻ thù lộ diện

Sáng hôm sau tôi xuống dùng điểm tâm sau tám tiếng ngủ say không mộng mị. Sir Walter đang giải mã điện tín giữa mấy đĩa bánh muffin với mứt bày trên bàn, vẻ hồng hào tươi tỉnh hôm qua có phần sút giảm.

Ông nói:

- Tối qua sau khi anh đi ngủ tôi gọi điện thoại nói chuyện cũng cả giờ đồng hồ. Tôi thuyết phục được xếp của tôi bàn với hai vị tư lệnh hải quân và bộ trưởng quốc phòng để đưa Royer qua đây sớm hơn một ngày. Họ gởi bức điện này để xác nhận thỏa thuận vừa kể. Royer sẽ có mặt ở Luân Đôn lúc năm giờ. Cũng lạ, mật danh của một vị phó tổng tham mưu lại là "Heo Sữa".

Ông ra dấu cho tôi dùng mấy món ăn nóng rồi tiếp:

- Tôi cũng không chắc thay đổi vậy có ích gì không. Mấy ông bạn của anh đã giỏi tới mức biết được ngày giờ đã sắp xếp lúc đầu, thì bọn chúng cũng sẽ biết những thay đổi kế tiếp. Tôi thật không hiểu tin tức bị rò rỉ ở chỗ nào. Chúng tôi tin chắc ở nước Anh chỉ có năm người biết về chuyến thăm của Royer, phía Pháp lại còn ít hơn nữa vì họ làm việc kín hơn chúng ta ở đây.

Trong lúc tôi ăn ông vẫn tiếp tục nói, tôi ngạc nhiên vì được ông tin tưởng kể cho nghe nhiều chuyện hệ trọng như vậy. Tôi hỏi:

- Có thể thay đổi việc bố trí lực lượng không?

- Cũng có thể, nhưng tránh được vẫn hơn. Bố trí như thế nào là việc đòi hỏi tính toán hết sức kỹ càng, mọi phương án khác đều không bằng. Ngoài ra có những chỗ hoàn toàn không thể thay đổi được. Dù sao nếu kẹt lắm thì tôi nghĩ cũng có cách, nhưng sẽ không dễ chút nào như anh đã thấy. Kẻ thù của chúng ta cũng không ngu tới độ tìm cách móc túi Royer hay làm mấy trò đơn giản kiểu đó. Chúng biết làm vậy sẽ gây ồn ào và chúng ta sẽ dè chừng. Chúng sẽ làm sao để chúng ta không biết tài liệu đã bị lộ và Royer trở về Paris tin chắc mọi việc vẫn nằm trong vòng bí mật tuyệt đối. Bằng không coi như chúng thất bại, vì khi chúng ta đã nghi ngờ đương nhiên mọi kế hoạch sẽ phải thay đổi.

- Vậy chúng ta phải bám sát Royer cho tới khi ông ta về lại tới bên Pháp. Nếu bọn chúng nghĩ có thể lấy được tài liệu ở Paris thì chúng đã lập mưu để ra tay bên đó rồi. Điều đó chứng tỏ tại Luân Đôn chúng đã có kế hoạch rất tinh vi và nắm chắc phần thắng trong tay.

- Theo lịch trình Royer sẽ ăn tối với xếp của tôi, sau đó tới nhà tôi để gặp gỡ bốn người là Whittaker ở bộ tư lệnh hải quân, tôi, Sir Arthur Drew và tướng Winstanley. Ngài tư lệnh bị bịnh đã đi Sherringham nghỉ rồi. Tại nhà tôi Royer sẽ nhận tài liệu từ tay Whittaker, sau đó sẽ có xe đưa ông ta tới Portsmouth, từ đó ông ta sẽ đáp tàu khu trục về Le Havre. Công tác của ông ta quá quan trọng không thể dùng phương tiện thông thường. Ông ta sẽ được hộ tống liên tục cho tới khi đã an toàn trên đất Pháp. Whittaker cũng sẽ được hộ tống như vậy cho tới khi gặp Royer. Làm tới đó là hết mức, không thể sơ hở được. Nhưng thú thật tôi thấy lo kinh khủng. Vụ ám sát Karolides sẽ gây sóng gió rất lớn tại các phủ thủ tướng Âu Châu.

Điểm tâm xong ông hỏi tôi có biết lái xe không.

- Vậy bữa nay anh làm tài xế cho tôi, nhớ mặc bộ đồ của Hudson. Anh cũng cỡ người như cậu ta. Anh có liên quan tới vụ này, và chúng ta phải hết sức cẩn thận. Chúng ta đang phải đối phó với những kẻ liều mạng, bọn chúng sẽ không từ chuyện về miền quê tấn công nhà nghỉ của một viên chức đã mệt mỏi vì làm việc quá sức đâu.

Hồi mới tới Luân Đôn tôi có mua chiếc xe để du ngoạn khắp miền nam nước Anh nên có biết qua đường sá ở đây. Tôi chở Sir Walter bon bon về thủ đô theo đường Bath. Buổi sáng tháng sáu trời lặng sắp sửa chuyển qua nóng bức, nhưng không khí vẫn còn dễ chịu khi chúng tôi băng qua những thị trấn nhỏ đường sá vừa tưới ướt và những khu vườn mùa hè vùng thung lũng sông Thames. Đúng mười một giờ rưỡi tôi đưa Sir Walter tới ngay trước nhà ở phố Queen Anne's Gate. Người quản gia của ông còn đang trên đường đưa đồ đạc lên bằng xe lửa.

Đầu tiên ông dẫn tôi tới sở cảnh sát gặp một ông mày râu nhẵn nhụi, dáng vẻ trịnh trọng như luật sư trước tòa.

Sir Walter giới thiệu tôi:

- Tôi đem thủ phạm vụ án mạng ở Portland Place tới cho ông đây.

Ông kia cười gượng gạo:

- Lúc trước thì tôi đã mừng mà cảm ơn ông lắm, ông Bullivant. Chắc đây là ông Richard Hannay, người đã từng khiến sở của tôi hết sức quan tâm phải không?

- Anh Hannay lại có chuyện cho mấy ông quan tâm đó. Anh ta có nhiều thứ kể mấy ông nghe, nhưng không phải hôm nay mà phải đợi hăm bốn tiếng vì lý do rất quan trọng. Nhưng tôi hứa là chuyện rất hấp dẫn và có lẽ mấy ông cũng sẽ biết được thêm vài điều có ích. Còn bây giờ tôi muốn ông bảo đảm với Hannay là anh ta sẽ không bị rắc rối gì nữa.

Ông kia đáp ứng ngay lập tức.

- Anh trở lại sống bình thường được rồi. Căn chung cư của anh vẫn còn nguyên mặc dù có lẽ anh không muốn ở đó nữa. Người giúp việc của anh cũng còn đó. Vì anh chưa bao giờ bị kết tội công khai nên chúng tôi nghĩ không cần phải tuyên bố công khai là anh vô tội, nhưng việc này anh muốn sao thì tùy.

Sir Walter nói lúc chúng tôi đứng dậy đi khỏi:

- Có thể chúng tôi sẽ cần ông giúp thêm, ông Macgillivray.

Rồi ông cho phép tôi đi.

- Anh hãy tới gặp tôi ngày mai, anh Hannay. Tôi không cần phải dặn anh tuyệt đối kín chuyện. Có lẽ anh nên ngủ cho thỏa thuê vì tôi chắc vừa rồi anh thiếu ngủ trầm trọng. Nhớ đừng để mấy ông bạn Đá Đen của anh nhìn thấy, kẻo lại rắc rối lắm.

Tôi cảm thấy hụt hẫng vì thình lình không còn chuyện để làm. Mới đầu cảm giác tự do thật dễ chịu, muốn đi đâu thì đi không phải lo sợ gì. Ở ngoài vòng pháp luật một tháng là quá đủ đối với tôi. Tôi tới khách sạn Savoy chọn thực đơn tỉ mỉ cho một bữa trưa thịnh soạn, sau đó hút thứ xì gà ngon nhất mà họ có. Nhưng tôi vẫn chưa dứt bỏ được cảm giác hồi hộp. Mỗi khi có ai nhìn tôi trong phòng nghỉ tôi lại ngượng ngùng không hiểu họ có nhớ vụ án mạng hay không.

Tôi đón tắc-xi đi một chặng dài nhiều dặm lên Bắc Luân Đôn. Sau đó tôi đi bộ về qua những cánh đồng, những khu biệt thự, nhà liền vách, xóm ổ chuột và những con phố tồi tàn mất an ninh, hết thảy gần hai tiếng đồng hồ. Trong lòng tôi mỗi lúc càng bồn chồn thêm. Tôi cảm thấy nhiều việc to lớn trọng đại đang hoặc sắp xảy tới, mà tôi vốn có vai trò trong đó bây giờ lại đứng ở ngoài. Royer đang cập bến ở Dover, Sir Walter đang bàn bạc tính toán với chỉ vài nhân vật duy nhất ở nước Anh biết về công tác bí mật đang diễn ra, và đâu đó trong bóng tối bọn Đá Đen đang ráo riết chuẩn bị. Tôi linh cảm được mối nguy đang rình rập và tai họa sắp sửa ập tới, và tôi cũng có cảm giác kỳ lạ là chỉ mình tôi mới ngăn được, mới đánh bại được âm mưu của kẻ thù. Nhưng tôi đang bị gạt ra ngoài. Khó mà có chuyện các vị bộ trưởng với tư lệnh và tướng hải quân lại mời tôi ngồi vô bàn họp chung với họ.

Tôi đã thấy thèm đụng phải một trong ba tên giặc. Ít ra khi đó sẽ có biến chuyển mới. Tay chân tôi ngứa ngáy muốn ẩu đả với bọn chúng một trận để xả bớt nỗi bực dọc đang dâng cao nhanh chóng.

Tôi không muốn quay trở lại căn chung cư cũ. Chuyện đó không tránh được nhưng sáng mai hãy tính, đêm nay tôi còn đủ tiền để ở khách sạn.

Tôi vẫn còn bực bội suốt bữa ăn tối ở một nhà hàng trên đường Jermyn. Tôi không thấy đói, nhiều món không đụng tới. Tôi uống gần hết chai Burgundy nhưng chẳng thấy vui vẻ gì hơn. Cả người tôi bồn chồn nóng nảy không chịu nổi. Tôi chỉ là anh chàng rất tầm thường, không giỏi giang gì đặc biệt, nhưng không hiểu sao tôi tin chắc phải có tôi việc này mới xong, bằng không sẽ không tránh được tai họa. Tôi tự nhủ đây chỉ là tính tự phụ ngu ngốc của mình, đã có bốn hoặc năm người giỏi xuất chúng được thế lực của cả đế quốc Anh hỗ trợ lo chuyện này. Nhưng tôi vẫn không yên tâm. Dường như có tiếng nói trong tai biểu tôi phải đứng dậy hành động, nếu không sẽ không bao giờ ngủ ngon được.

Kết cục là khoảng chín rưỡi tối tôi quyết định tới phố Queen Anne's Gate. Rất có thể họ sẽ không tiếp tôi, nhưng lương tâm tôi sẽ dễ chịu hơn vì dù sao cũng đã cố gắng.

Tôi đi bộ dọc đường Jermyn, tới góc đường Duke thì gặp một đám thanh niên diện đồ buổi tối. Cả đám đã ăn nhậu ở đâu rồi đang kéo đi coi ca nhạc tạp kỹ, trong đó có Marmaduke Jopley.

Thấy tôi hắn đứng sựng lại rồi kêu to:

- Tên giết người kìa! Các cậu bắt nó lại! Nó là thằng Hannay giết người trong vụ ở Portland Place!

Hắn nắm cứng tay tôi, còn bọn kia vây chặt chung quanh.

Tôi không muốn kiếm chuyện, nhưng đang lúc bực bội tôi không suy nghĩ kỹ. Có viên cảnh sát lại gần, lẽ ra tôi phải nói rõ sự thật cho ông ta nghe, và nếu ông ta không tin thì yêu cầu dẫn tới sở cảnh sát hay đồn nào gần nhất. Tuy nhiên lúc đó tôi cảm thấy gấp rút muốn đi ngay, với lại nhìn cái mặt ngu ngốc của Marmie tôi không thể chịu nổi. Tôi tung một cú đấm tay trái và khoái chí nhìn hắn nằm đo rãnh cống.

Vậy là ầm ĩ lên. Đám thanh niên nhào vô tấn công tôi cùng một lúc, còn ông cảnh sát ôm lấy lưng tôi. Tôi lãnh mấy cú đau điếng, vì lẽ ra tôi có thể hạ hết nguyên bọn nhưng tôi bị ông cảnh sát ghì chặt từ phía sau và một tên nữa siết cổ.

Trong tiếng la ó tôi nghe vị đại diện luật pháp hỏi có chuyện gì, và Marmie tuyên bố qua hàm răng gãy rằng tôi chính là tên sát nhân Hannay. Tôi bèn kêu to:

- Ôi chán quá, biểu thằng chả im đi! Ông cảnh sát hãy để tôi yên. Đằng sở người ta biết tôi, nếu ông cản trở tôi thì bị xếp la ráng chịu!

Viên cảnh sát nói:

- Anh phải theo tôi về đồn. Chính mắt tôi thấy anh đấm anh kia một cú nặng lắm. Mà anh ta không có làm gì anh, chính anh gây sự trước, tôi thấy hết. Đi theo tôi đàng hoàng, không thì tôi còng.

Trong lòng quá bực tức cộng thêm linh cảm có chuyện khẩn cấp thôi thúc khiến tôi trở nên mạnh như voi. Tôi nhấc ông cảnh sát lên khiến ông ta loạng choạng, quật ngã tên đang siết cổ tôi, rồi cắm cổ chạy theo đường Duke. Tôi nghe tiếng còi huýt vang và tiếng chân rầm rập đuổi theo.

Bình thường tôi đã chạy nhanh, còn tối hôm đó tôi như mọc thêm cánh. Loáng một cái tôi đã tới đường Pall Mall và quẹo xuống công viên St. James. Tôi né viên cảnh sát trước cổng cung điện, lách qua đám xe ngựa ken nhau chỗ dẫn vô đường Mall và phóng thẳng tới cây cầu trước khi đám người đuổi theo kịp băng qua đường lớn. Đường trong công viên trống trải, tôi vọt càng nhanh hơn. Cũng may trong công viên có ít người và không ai tìm cách ngăn tôi lại. Bằng mọi giá tôi phải tới được đường Queen Anne's Gate.

Khi tôi tới nơi thì con phố yên tĩnh vắng tanh không một bóng người. Ngôi nhà của Sir Walter nằm ở khúc đường hẹp, bên ngoài ba bốn chiếc xe đang đậu. Còn cách vài thước tôi ngừng chạy, bước nhanh tới trước cửa. Nếu người quản gia từ chối không cho tôi vô nhà hoặc chỉ cần ông ta chậm mở cửa thì tôi coi như xong.

Nhưng người quản gia không chậm chút nào. Tôi vừa nhớm bấm chuông thì ông ta đã mở cửa. Tôi hổn hển nói:

- Tôi phải gặp Sir Walter có chuyện khẩn cấp.

Người quản gia là kẻ hiểu biết. Ông ta điềm tĩnh giữ cửa đợi tôi bước vô rồi đóng lại.

- Sir Walter đang bận và dặn tôi không được cho ai vào. Ông chịu khó đợi vậy.

Ngôi nhà xây kiểu xưa, tiền sảnh rộng có phòng hai bên. Ở một đầu có khoảng thụt trong tường kê chiếc điện thoại với mấy cái ghế. Người quản gia mời tôi ngồi ở đó. Tôi nói nhỏ:

- Tôi đang gặp rắc rối, nhưng Sir Walter biết rõ vì tôi đang lo công chuyện cho ông ấy. Nếu có ai tới kiếm thì đừng nói có tôi ở đây.

Ông ta gật đầu. Lát sau tôi nghe tiếng nói chuyện ồn ào ngoài phố, rồi chuông cửa reo gấp gáp. Tôi chưa khâm phục ai bằng ông quản gia này. Ông ta mở cửa, gương mặt bất động chờ nghe hỏi. Nghe xong ông ta trả lời đây là nhà của ai và ông ta được lệnh gì, vẻ lạnh lùng khiến đám kia líu ríu rời khỏi bậc thềm. Từ chỗ ngồi trong nhà tôi nhìn thấy ông ta diễn không chỗ nào chê được.



Chờ chưa bao lâu tôi lại nghe tiếng chuông cửa. Lần này người quản gia mời ngay khách vô nhà. Trong lúc ông ta giúp khách cởi áo choàng, tôi nhận ra người mới tới là ai. Chỉ cần giở báo hay tạp chí ra là ai cũng thấy gương mặt đó - chòm râu xám cắt hình lưỡi xẻng, miệng cứng rắn, mũi bạnh và vuông, mắt xanh sắc lẻm. Chính là vị tư lệnh hải quân, người nghe nói đã kiến tạo lực lượng Hải Quân Anh thời hiện đại.

Ông ta đi ngang chỗ tôi ngồi và được dẫn vào căn phòng ở cuối hành lang. Lúc cửa mở tôi nghe tiếng nói nho nhỏ vọng ra. Cửa đóng, tôi lại chỉ còn một mình.

Tôi ngồi suốt hai mươi phút, không biết phải làm gì kế tiếp. Tôi vẫn tin chắc họ sẽ cần tới mình, nhưng khi nào và theo cách nào thì đành chịu. Tôi cứ liếc coi giờ, và khi kim đồng hồ chậm chạp bò đến mười rưỡi tôi nghĩ cuộc họp chắc cũng sắp kết thúc. Mười lăm phút nữa Royer sẽ ngồi trong xe phóng nhanh về Portsmouth...

Có tiếng chuông reo, người quản gia xuất hiện. Cửa căn phòng phía sau mở và vị tư lệnh hải quân bước ra. Ông ta đi ngang liếc nhìn tôi, và trong một giây ngắn ngủi ánh mắt chúng tôi chạm nhau.

Chỉ có một giây nhưng đủ làm tim tôi đập mạnh. Tôi chưa bao giờ gặp nhân vật quan trọng này, ông ta cũng chưa hề gặp tôi. Nhưng trong khoảnh khắc đó ánh mắt ông ta nhận ra tôi. Chỉ là một đốm sáng lóe nhanh, một thoáng nhẹ thay đổi, nhưng ý nghĩa không thể lầm được. Ánh mắt đó là phản xạ ngoài ý muốn chủ nhân, vừa vụt lên đã tắt ngúm trong khi ông ta vẫn tiếp tục bước đi. Tôi nghe tiếng cửa chính đóng lại giữa lúc bao nhiêu tưởng tượng ập tới trong đầu.

Tôi chụp cuốn niên giám điện thoại tra số của nhà riêng ông ta. Đường dây kết nối ngay lập tức, tôi nghe tiếng một người giúp việc trả lời. Tôi hỏi:

- Ngài tư lệnh có nhà không?

- Ngài về cách đây nửa giờ và đã đi nằm. Tối nay ngài không khỏe. Thưa ông có muốn nhắn gì không?

Tôi cúp máy và loạng choạng muốn ngồi phịch xuống ghế. Vai trò của tôi trong vụ này chưa xong đâu. Chỉ chút nữa là hỏng việc, nhưng tôi đã có mặt kịp lúc.

Không thể lỡ thêm phút nào, tôi bèn mạnh dạn tiến lại căn phòng phía sau, bước vô luôn mà không gõ cửa. Năm gương mặt quanh chiếc bàn tròn sửng sốt ngước lên. Có Sir Walter và ngài Drew bộ trưởng quốc phòng tôi đã thấy hình chụp. Có một ông lớn tuổi gầy ốm, chắc là viên chức bộ tư lệnh hải quân tên Whittaker. Có tướng Winstanley nổi bật với vết sẹo dài trên trán. Cuối cùng là một ông người thấp tròn, hàm ria xám và lông mày rộng, đang nói dở chừng thì tôi vô phòng làm ngắt ngang.

Sir Walter lộ vẻ ngạc nhiên và bực bội. Ông nói với mấy người khách bằng giọng xin lỗi:

- Đây là anh Hannay tôi có nói chuyện với quí vị. Hannay, tôi e là anh tới rất không đúng lúc.

Tôi đã bình tĩnh lại và đáp:

- Tôi lại cho rằng tôi tới đây vừa kịp lúc, thưa Sir Walter. Xin hỏi ai vừa mới ra khỏi đây chừng một phút?

Sir Walter mặt đỏ bừng trả lời:

- Lord Alloa.

Tôi nói to:

- Không phải! Ông ta nhìn giống hệt Lord Alloa nhưng không phải. Ông ta nhận ra tôi, tôi đã gặp ông ta hồi tháng trước. Ông ta vừa ra khỏi cửa là tôi gọi điện thoại tới nhà của Lord Alloa, họ cho tôi biết ngài tư lệnh đã về nhà trước đó nửa tiếng và đi ngủ rồi.

Ai đó lắp bắp:

- Vậy thì ai... ai...

Tôi đáp:

- Chính là Đá Đen!

Tôi ngồi xuống chiếc ghế vừa bỏ trống, nhìn quanh thấy năm gương mặt đang hoảng sợ tột độ.

Sunday, April 15, 2012

Ba mươi chín bậc thang - Chương 7: Người đi câu

Tôi ngồi trên đỉnh đồi điểm lại tình hình, cả người đau đớn khó chịu khiến nỗi mừng thoát chết cũng mờ nhạt đi. Khói thuốc nổ làm tôi nhiễm độc nặng, lại thêm trọn buổi chiều phơi nắng trên nóc chuồng bồ câu khiến tôi đau buốt trong đầu và buồn nôn kinh khủng. Ngoài ra vai tôi cũng có chuyện, mới đầu tôi nghĩ chỉ là bị bầm nhưng sau lại thấy sưng lên, còn cánh tay trái không nhúc nhích được.

Kế hoạch của tôi là tìm tới nhà ông Turnbull để lấy mấy cái áo và quan trọng nhất là cuốn sổ của Scudder, rồi ra đường xe lửa đón tàu đi về phía nam. Tôi muốn liên lạc với Sir Walter Sullivant trong Bộ Ngoại Giao sớm chừng nào tốt chừng đó. Tôi chỉ có thể thu thập chừng đó chứng cớ, ông ta tin hay không thì tùy. Vả lại thà ở trong tay ông ta còn hơn là bị bọn Đức quỉ quái kia tóm được. Lúc này tôi đã bắt đầu thấy có cảm tình với cảnh sát Anh.

Đêm tuyệt đẹp đầy sao, tôi tìm đường không khó khăn mấy. Tấm bản đồ của Sir Harry đã cho tôi biết địa hình vùng này, và tôi chỉ cần xoay theo vài độ la bàn tiến về hướng tây - tây nam là tới được con suối chỗ tôi gặp người phu làm đường. Suốt cuộc hành trình tôi không biết tên những nơi mình đã đi qua, nhưng tôi tin chắc con suối đó là thượng nguồn sông Tweed. Tôi ước tính đường dài khoảng mười tám dặm, nghĩa là tôi sẽ không kịp tới nơi trước khi trời sáng. Do đó tôi phải tìm chỗ lánh tạm, vì bộ dạng tôi quá kinh khủng không thể đi đâu ban ngày được. Tôi không có cả áo khoác lẫn áo chẽn, cổ áo và mũ cũng không, quần thì rách bươm, còn mặt với hai tay đen nhẻm vì khói thuốc nổ. Tôi chắc mình còn có nhiều nét đẹp khác nữa, vì mắt tôi cảm thấy như đang tóe máu. Tóm lại tôi không dám để người đàng hoàng nào nhìn thấy mình trên đường lộ.

Trời vừa sáng tôi xuống suối rửa ráy tạm rồi lại gần túp nhà của một người chăn cừu, vì tôi đang đói lắm. Người chăn cừu không có nhà, chỉ có một mình bà vợ, chung quanh năm dặm không có ai ở gần. Bà này già nhưng còn khỏe và gan dạ, vì tuy lúc đầu thấy tôi thì sợ, nhưng lập tức bà cầm lấy rìu sẵn sàng bửa vào kẻ gian. Tôi nói mình bị té mà không giải thích gì thêm, nhưng nhìn là bà biết ngay tôi đang yếu lắm. Bà không hỏi gì thêm nhưng rót cho tôi tô sữa tươi pha một chút whisky, rồi để tôi ngồi sưởi bên bếp lửa. Bà cũng muốn xức thuốc lên vai tôi, nhưng tôi đau quá không chịu để bà đụng vô.

Tôi không biết bà cho tôi là hạng người gì, có lẽ là tên trộm hối cải, vì khi tôi muốn trả tiền sữa và đưa ra đồng sovereign - tôi không có tiền nhỏ hơn - thì bà lắc đầu từ chối và biểu "để đó đưa lại cho người ta." Nghe vậy tôi phản đối mạnh khiến bà cũng chịu tin tôi, cầm lấy đồng tiền và đưa thêm tấm mền ấm dệt ca-rô với chiếc mũ cũ của chồng bà. Bà chỉ tôi cách choàng tấm mền lên vai, và khi rời khỏi đó chắc tôi nhìn giống hệt tranh minh họa người đàn ông xứ Scotland trong những tập thơ của Burns. Dù sao tôi cũng đã được mặc kỹ hơn trước.

Cũng vừa kịp lúc, vì gần tới trưa trời chuyển mưa. Tôi tránh mưa dưới một gờ đá tại khúc ngoặt của một con suối, ở đây có mớ dương xỉ khô bị tấp vô bờ có thể dùng làm chỗ nằm tạm. Tôi ngủ cho tới tối, tỉnh dậy thấy người ê ẩm, bắp thịt cứng đơ, vai trái đau dai dẳng như đau răng. Tôi ăn chút bánh lúa mạch với pho-mát của bà lão đưa cho, rồi lên đường khi đêm vừa xuống.

Tôi không kể lại đây những gì khổ sở phải trải qua giữa vùng đồi núi đẫm mưa trong đêm đó. Không có sao trên trời để nhắm hướng, tôi phải ráng tìm theo bản đồ trong trí nhớ. Tôi bị lạc đường hai lần, lại còn té vô hố than bùn đau điếng. Đường chim bay chỉ có mười dặm, nhưng vì chệch hướng nên tôi phải đi gần hai mươi dặm mới tới nơi. Tôi đi hết đoạn đường cuối cùng trong lúc răng nghiến chặt còn đầu óc choáng váng, nhẹ hẫng. Tôi gõ cửa nhà ông Turnbull lúc mờ sáng. Chung quanh sương mù dày đặc, đứng trước nhà không nhìn thấy đường lộ.

Ông Turnbull ra mở cửa, bộ dạng tỉnh táo, quá tỉnh là đằng khác. Ông ta nhìn rất trang trọng trong bộ vét đen tuy cũ nhưng được giữ kỹ, râu mới cạo, cổ áo tốt, tay trái cầm cuốn Kinh Thánh cỡ nhỏ. Mới đầu ông ta không nhận ra tôi nên hỏi:

- Ông là ai mà sáng sớm chủ nhật lại tới đây?

Tôi đã quên đếm ngày. Thì ra hôm nay là chủ nhật nên ông ta chải chuốt thấy lạ như vậy.

Đầu tôi quay mòng mòng, không nói được lời nào rõ ràng. Nhưng ông ta nhận ra tôi và thấy rõ tôi đang bịnh.

Ông ta hỏi:

- Anh có đem theo cặp kiếng của tôi không?

Tôi thọc tay vô túi quần lấy kiếng trả cho ông ta. Ông ta nói:

- Anh tới lấy áo phải không? Vô nhà đi. Coi anh đứng còn không nổi kìa. Ráng chút để tôi dắt anh lại ghế ngồi.

Tôi biết mình đã bị sốt. Bịnh sốt đã nằm sẵn trong người tôi và phát ra sau một đêm dầm mưa, lại thêm bả vai đau nhức và khói thuốc nổ độc khiến tôi muốn lả đi. Chưa kịp định thần tôi đã thấy ông Turnbull giúp cởi quần áo và đưa tôi lên chiếc giường kê trong hốc buồng nhỏ sát bếp.

Phải nói người phu già này thật sự là người bạn đúng nghĩa. Ông góa vợ đã nhiều năm và sống một mình từ khi con gái đi lấy chồng. Suốt gần mười ngày ông săn sóc tôi theo cách đơn sơ, nhưng tôi cũng chỉ cần có vậy. Tôi muốn được để yên trong lúc chờ đợi trận sốt đi qua, và khi da thịt đã mát trở lại tôi nhận thấy vết thương ở vai cũng êm đi nhiều. Nhưng trận sốt quả là nặng, tuy tôi ngồi dậy được sau năm ngày nhưng cũng phải ít lâu nữa mới đi lại được.

Mỗi sáng ông ra khỏi nhà, để cho tôi sữa đủ dùng trong ngày và khóa cửa lại. Tới tối ông về ngồi lặng lẽ bên góc bếp. Không một ai lại gần túp nhà. Khi tôi đã khỏe hơn ông cũng không hề hỏi han quấy rầy. Có mấy lần ông đem về cho tôi tờ Người Scotland đã cũ hai ngày, và tôi nhận thấy vụ án mạng ở Portland Place đã không còn ai để ý tới. Trong báo không nhắc lấy một dòng tới vụ án mạng, cũng không có tin gì khác ngoài sự kiện gọi là Đại Hội Đồng mà theo tôi hiểu chỉ là cuộc tụ tập náo nhiệt của giới chức sắc tôn giáo.

Một hôm ông mở khóa ngăn kéo lấy ra chiếc thắt lưng của tôi và nói:

- Trong này nhét nhiều tiền quá. Tôi nghĩ anh nên đếm lại coi có đủ không.

Ông chẳng bao giờ hỏi tên tôi. Tôi muốn biết có ai tới hỏi han gì sau vụ tôi vá đường hay không.

- Có một ông chạy xe hơi lại hỏi bữa đó ai làm thế cho tôi. Tôi nói bộ ông điên sao. Nhưng ông ta cứ gặng riết nên tôi mới nói chắc là thằng em tôi bên làng Cleuch lâu lâu qua giúp một tay. Ông ta coi bộ cau có lắm, nói giọng gì tôi nghe không hiểu mấy.

Tôi trở nên bồn chồn suốt mấy ngày cuối, và khi đã thấy khỏe tôi quyết định đi ngay. Ngày mười hai tháng sáu có một người lùa bò đi ngang, ông ta trên đường tới Moffat. Ông ta tên Hislop, là bạn với ông Turnbull, ghé lại ăn sáng với chúng tôi và rủ tôi đi chung.

Tôi vất vả lắm mới ép được ông Turnbull nhận năm pound cho thời gian tôi trú lại. Tôi chưa gặp ai tánh tình độc lập như ông. Khi bị tôi nài nỉ ông trở nên cau có, mặt đỏ bừng, cuối cùng miễn cưỡng cầm tiền mà không nói cảm ơn. Khi tôi nói mình mang ơn ông rất nhiều thì ông chỉ làu bàu "anh giúp tôi thì tôi giúp lại." Chúng tôi chia tay mà cứ như là giận nhau.

Hislop tánh tình vui vẻ, tán đủ chuyện từ lúc qua đèo cho tới khi đi vào thung lũng Annan ngập nắng. Tôi nói chuyện mua bán cừu ở Galloway và ông ta kết luận tôi là một người "chăn chia bầy" ở địa phương, tôi cũng không rõ tên gọi đó nghĩa là gì. Như đã nói, tấm mền ca-rô với chiếc mũ cũ đem lại cho tôi vẻ người Scotland đặc trưng như vẫn thường mô tả trên sân khấu. Tuy nhiên lùa bò là công việc hết sức chậm chạp, gần hết ngày mà chúng tôi mới đi được hơn chục dặm đường.

Nếu như đừng lo lắng trong lòng thì tôi cũng thích thú chuyến đi này lắm. Bầu trời xanh nắng tràn, cảnh vật luân phiên hết đồi nâu lại tới đồng cỏ xanh trong tiếng chim kêu và suối đổ bất tận. Nhưng tôi không còn tâm trí nào để thưởng thức cảnh mùa hè và chỉ trò chuyện qua loa với Hislop. Ngày mười lăm hệ trọng đã gần kề, và lòng tôi đang bấn lên vì công tác cam go không mấy hy vọng của mình.

Tôi ăn tối tại một quán bình dân ở Moffat rồi đi bộ hai dặm tới chỗ giao với đường tàu lửa chính. Phải nửa đêm mới có tàu tốc hành đi về phía nam, tôi bèn lên sườn đồi làm một giấc cho qua thì giờ vì lội bộ cả ngày đã làm tôi mệt đừ. Tôi ngủ quên, phải chạy vội tới ga mới kịp lên tàu hai phút trước giờ khởi hành. Ngồi trên ghế nệm cứng nghe mùi thuốc lá lâu ngày trong toa hạng ba khiến tôi phấn chấn hẳn lên. Tôi cảm thấy mình đang quen dần với nhiệm vụ.

Tôi xuống ga Crewe lúc trời còn khuya và phải chờ tới sáu giờ sáng mới có tàu đi Birmingham. Tôi tới Reading vào buổi chiều, đổi qua tàu địa phương chạy sâu vào quận Berkshire. Không bao lâu tôi đã ở giữa một vùng đồng cỏ ẩm ướt xanh rì với những con suối lững lờ mọc đầy lau lách. Khoảng tám giờ tối, một khách lữ hành dáng điệu bơ phờ, áo quần xộc xệch nửa giống dân cày nửa giống thầy thú y, tấm mền ca-rô đen trắng vắt trên tay (tôi không dám khoác mền sau khi ra khỏi Scotland), bước xuống ga Artinswell bé nhỏ. Trên sân ga có mấy người, tôi phải đợi ra xa mới dám hỏi đường.

Con đường dẫn qua cánh rừng dẻ toàn cây cao lớn, rồi tới một thung lũng cạn chung quanh là đồi cỏ xanh nhìn xuống những ngọn cây xa xa. Không khí ở đây không nhẹ lâng như ở Scotland mà trĩu ngọt mùi hoa dẻ với tử đinh hương đang nở rộ. Tôi tới cây cầu bắt qua dòng suối trong chảy chầm chậm giữa những luống hoa mao lương nở trắng toát. Ngược về phía nguồn gần đó có một nhà xay lúa, tiếng nước tràn qua đập chắn nghe mát lạnh trong trời hoàng hôn thơm ngát. Không hiểu sao nơi này làm tôi thấy dễ chịu hẳn. Tôi nhìn xuống lòng suối xanh thẳm và buột miệng huýt gió điệu nhạc "Annie Laurie".

Có người câu cá từ bờ suối đi lên, khi tới gần tôi ông ta cũng huýt gió theo cùng điệu nhạc. Ông ta tướng cao to, quần nỉ xốc xếch, đầu đội mũ rộng vành, chiếc bao vải bạt vắt ngang vai. Ông ta gật đầu chào, gương mặt thông minh và hiền hậu tôi chưa thấy ai hơn. Ông ta gác vô thành cầu chiếc cần mỏng dài mười feet ghép bằng tre chẻ, rồi cũng nhìn xuống nước bên cạnh tôi.

Ông ta nói giọng vui vẻ:

- Nước trong quá phải không? Sông Kennet này bảo đảm sạch. Coi anh chàng kia kìa, nặng cũng bốn cân là ít. Nhưng hết giờ kiếm mồi buổi tối rồi, không nhử được nó đâu.

- Sao tôi không nhìn thấy gì hết.

- Kia kìa! Cách bụi lau chừng một thước, ngay phía trên chỗ nước đổ xuống bậc đá đó.

- À tôi thấy rồi. Mới nhìn cứ tưởng chỉ là hòn đá đen.

Ông ta ừ một tiếng rồi huýt gió thêm một khúc trong bản "Annie Laurie". Mắt vẫn nhìn chăm xuống suối, ông ta nói ra sau vai:

- Anh tên Twisdon phải không?

Tôi quên mất cái tên giả nên đáp:

- Không, à phải!

Ông ta cười toe nhìn con gà nước dưới gầm cầu bay ra và nhận xét:

- Đã tính chuyện mưu đồ thì phải nhớ mình tên gì chớ.

Tôi đứng thẳng dậy nhìn ông ta, cằm chẻ vuông vức, trán rộng có nếp nhăn, gò má rắn rỏi, và nghĩ thầm cuối cùng mình đã tìm được một đồng minh quí giá. Đôi mắt xanh linh hoạt của ông ta nhìn sâu thăm thẳm.

Thình lình ông ta cau mặt nói to:

- Thật đáng xấu hổ, đàn ông khỏe mạnh như anh lại dám vác mặt đi xin. Anh ra sau bếp nhà tôi sẽ được ăn một bữa, nhưng đừng mong tôi cho tiền bạc gì.

Một xe ngựa chở chó săn đang đi ngang, người thanh niên đánh xe giơ roi chào ông câu cá. Khi chiếc xe đã chạy khuất, ông ta cầm cần câu lên, đưa tay chỉ cánh cổng sơn trắng cách đó chừng trăm thước và nói trước khi đi khỏi:

- Nhà tôi ở đó. Anh hãy chờ năm phút rồi đi vòng ra cửa sau.

Tôi làm theo lời ông ta. Căn nhà xinh xắn, sân cỏ chạy tới bờ suối, hai bên lối đi tú cầu và tử đinh hương mọc rậm rì. Cửa sau để mở, một người quản gia vẻ nghiêm trang đang đứng chờ tôi. Ông ta nói:

- Mời ông đi lối này.

Ông ta dẫn tôi theo hành lang lên cầu thang phụ tới một phòng ngủ sáng sủa dễ chịu, cửa sổ nhìn ra bờ sông. Trên giường đã bày sẵn áo quần lịch sự đầy đủ lệ bộ cho tôi thay - bộ vét nỉ màu nâu, sơ-mi, cổ áo, cà-vạt, bộ cạo râu, lược chải đầu và cả đôi giày da bóng. Người quản gia nói với tôi:

- Sir Walter nói có lẽ ông mặc vừa đồ của cậu Reggie. Cậu ấy có để ít đồ lại đây vì cậu hay tới chơi mỗi cuối tuần. Phòng tắm ở ngay bên cạnh, tôi đã pha nước nóng trong bồn rồi. Nửa tiếng nữa sẽ dọn bữa tối, ông sẽ nghe chuông báo.

Ông ta ra khỏi phòng. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành êm ái bọc vải hoa, miệng há hốc. Từ cảnh ăn mày đổi qua chốn tiện nghi đẹp đẽ thình lình như vầy quả là nhiều kịch tính. Rõ ràng Sir Walter tin tưởng tôi, lý do nào thì tôi chưa biết. Tôi nhìn vô gương thấy một gã da nâu vẻ hốc hác man dại, râu ria lởm chởm hai tuần chưa cạo, mắt và tai cáu bẩn, không cổ áo, sơ-mi màu mè rẻ tiền, bộ đồ ngoài bằng vải tweed xộc xệch cũ kỹ, còn đôi giày cả tháng chưa lau chùi. Nhìn tôi giống hệt tên lang thang không nhà và cũng khá giống kẻ chuyên lùa gia súc ngoài đường, vậy mà ông quản gia rất đỗi nghiêm chỉnh kia lại đưa tôi vô chỗ sang trọng này trong khi tên tôi họ còn chưa biết.

Tôi quyết định được gì hưởng nấy mà khỏi thắc mắc chi cho mệt. Tôi cạo râu, khoan khoái ngâm mình trong bồn nước ấm rồi mặc quần áo chỉnh tề, bộ vét với chiếc áo sơ-mi sạch còn cứng hồ khá vừa vặn. Xong xuôi tôi soi gương thấy một anh chàng coi cũng không tệ.

Sir Walter chờ tôi trong phòng ăn tối mờ, trên chiếc bàn tròn nhỏ có thắp đèn cầy cắm trong đế bằng bạc. Nhìn ông ta đàng hoàng, địa vị vững vàng, hiện thân của quyền lực và luật pháp cũng như tục lệ xã hội khiến tôi hơi ngại và cảm thấy mình đường đột. Ông ta chắc là không biết gì về tôi nên mới đối xử tử tế như vầy. Không thể để ông ta tiếp đãi mình trong lúc chưa rõ ngọn ngành, tôi bèn nói:

- Tôi biết ơn ông hết sức, nhưng sự thật là tôi đang bị cảnh sát truy nã mặc dù tôi vô tội. Tôi phải nói rõ để ông có muốn đuổi tôi ra thì đuổi.

Ông ta mỉm cười:

- Đừng lo chuyện đó. Anh cứ ăn tự nhiên rồi chúng ta nói chuyện.

Tôi chưa từng dùng bữa ngon miệng như vậy vì cả ngày chỉ ăn tạm sandwich mua ở ga. Sir Walter đãi tôi rất thịnh soạn, dọn sâm-banh đắt tiền rồi lại tới loại rượu port ngon lạ lùng. Tôi ngồi đó được hầu hạ từng chút một và suýt phá lên cười sằng sặc khi nhớ lại suốt ba tuần lễ qua tôi sống như thằng ăn cướp ai cũng muốn đuổi bắt. Tôi kể cho Sir Walter nghe về giống cá cọp ở sông Zambesi hở ra là cắn đứt ngón tay người. Chúng tôi bàn chuyện săn bắn ở các vùng khác nhau trên thế giới vì lúc trẻ ông ta cũng có đi săn nhiều.

Ông ta dẫn tôi vô phòng làm việc dùng cà phê. Căn phòng vui mắt chất đầy sách với cúp thưởng, thiếu ngăn nắp một chút nhưng thoải mái dễ chịu. Tôi nhủ thầm nếu sau này không phải làm việc và có nhà riêng thì tôi sẽ làm một chỗ giống như vầy. Khi cà phê đã dọn đi và xì-gà đã châm lên, ông chủ nhà vắt đôi chân dài lên thành ghế rồi biểu tôi kể đầu đuôi câu chuyện. Ông ta nói:

- Tôi đã làm theo đúng theo lời Harry dặn. Nó có hứa là câu chuyện của anh sẽ làm tôi hoảng hồn. Giờ thì tôi nghe đây, anh Hannay.

Tôi giật thót người khi nghe ông ta gọi đúng tên mình. Tôi kể từ đầu, lúc tôi đang chán Luân Đôn rồi tối về nhà gặp Scudder đứng lắp bắp trước cửa. Tôi kể Scudder nói gì về Karolides và cuộc hội nghị của Bộ Ngoại Giao khiến ông ta bĩu môi rồi bật cười. Lúc tôi kể tới vụ án mạng ông ta nghiêm trang trở lại. Ông ta nghe hết chuyện người giao sữa, những gì tôi đã làm ở Galloway cũng như chuyện tôi giải được mật mã trong sổ tay của Scudder. Ông ta hỏi giật:

- Anh có cuốn sổ đó ở đây không?

Tôi móc túi lấy cuốn sổ và ông ta thở phào. Tôi không nói gì tới nội dung trong sổ mà kể tiếp chuyện gặp Sir Harry và buổi diễn thuyết trong hội trường. Nghe tới đó ông ta cười rộ.

- Harry nó nói vớ vẩn lắm phải không? Nghe anh kể là tôi tin liền. Nó tốt lắm, tội cái là bị ông bác ngu ngốc nhồi vô đầu toàn chuyện tầm bậy. Kể tiếp đi, anh Hannay.

Ông ta rất chú ý tới vụ tôi giả làm phu vá đường, yêu cầu tả thật kỹ hai tên chạy xe rồi có vẻ ráng lục lọi trong trí nhớ. Ông ta vui vẻ trở lại khi nghe tôi kể chuyện gã ngốc Jopley. Nhưng lão già ở ngôi nhà giữa vùng trảng cỏ khiến ông ta trở nên hết sức nghiêm trang, và tôi phải tả lại từng chi tiết nhỏ về bộ dạng của lão.

- Mặt hiền, đầu hói, mí mắt kéo xuống như mắt chim... Tả nghe giống như giống chim săn mồi vậy. Rồi anh cho nổ tung chỗ ẩn cư của hắn sau khi hắn cứu anh khỏi tay cảnh sát? Anh gan lắm chớ không phải vừa!

Tôi kể tới đoạn kết của những ngày lang bạt vừa qua. Ông ta chậm rãi đứng dậy trên tấm thảm trước lò sưởi, nhìn thẳng xuống tôi đang ngồi và nói:

- Anh không cần phải lo lắng gì về cảnh sát nữa. Anh không còn bị rắc rối với pháp luật đâu.

Tôi thốt lên:

- Trời đất! Bộ họ bắt được thủ phạm rồi sao?

- Chưa đâu. Nhưng họ đã loại anh khỏi danh sách tình nghi từ hai tuần nay.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao vậy?

- Chủ yếu là do tôi được thư của Scudder. Tôi có biết ông ta, trước ông ta có giúp tôi vài việc. Scudder thuộc dạng nửa lập dị nửa thiên tài, nhưng rất thành thật. Có điều ông ta ưa hành động riêng lẻ nên không làm công tác mật vụ được, thật uổng vì ông ta có tài lắm. Tôi nghĩ ông ta là người can đảm hiếm có, tuy sợ chết khiếp nhưng giá nào cũng không chịu lùi bước. Tôi được thư của ông ta ngày ba mươi mốt tháng năm.

- Nhưng lúc đó ông ta đã chết được một tuần rồi.

- Lá thư đó viết và gởi đi ngày hăm ba. Rõ ràng ông ta không ngờ bị giết sớm như vậy. Thư từ của ông ta tôi phải mất cả tuần mới nhận được vì gởi qua Tây Ban Nha để che mắt rồi mới chuyển về Newcastle. Anh biết đó, ông ta lúc nào cũng lo che đậy dấu vết rất kỹ.

Tôi lắp bắp hỏi:

- Ông ta nói gì vậy?

- Không có gì quan trọng. Ông ta chỉ nói đang gặp nguy hiểm nhưng đã tìm được chỗ trốn ở nhà một người bạn, và tôi sẽ được tin trước ngày mười lăm tháng sáu. Ông ta không cho biết địa chỉ, chỉ nói là ở gần Portland Place. Tôi đoán ông ta không muốn anh bị liên lụy nếu có chuyện xảy ra. Sau khi được thư tôi tới sở cảnh sát rà lại biên bản thẩm tra và kết luận anh chính là người bạn Scudder nói trong thư. Chúng tôi có điều tra về anh và biết anh là người đàng hoàng. Tôi cũng hiểu lý do anh đi trốn, không chỉ vì sợ cảnh sát mà còn sợ phe kia nữa. Khi được mấy chữ của Harry thì tôi đoán ra hết. Tôi đã chờ anh cả tuần nay.

Nghe vậy tôi nhẹ nhõm hết sức. Tôi cảm thấy mình lại được tự do, không còn phải đối phó với pháp luật mà chỉ phải đương đầu vói kẻ thù của quốc gia. Sir Walter tiếp:

- Bây giờ chúng ta hãy coi trong sổ viết gì.

Chúng tôi mất cả tiếng đồng hồ mới đọc hết. Tôi cắt nghĩa qui tắc mật mã và ông ta hiểu rất nhanh. Ông ta sửa tôi mấy chỗ sai lúc giải mã, nhưng nói chung tôi đã giải đúng nội dung. Chưa đọc xong ông ta đã tỏ vẻ nghiêm trọng, ngồi lặng đi một lát.

Cuối cùng ông ta nói:

- Tôi thật không biết nghĩ sao. Scudder nói đúng về việc sẽ xảy ra ngày mốt. Làm sao ông ta lại biết được? Chừng đó cũng đủ đáng lo rồi. Nhưng còn chuyện chiến tranh với Đá Đen thì nghe sao cường điệu quá sức. Tôi không hoàn toàn tin vào suy xét của Scudder. Ông ta có tật lãng mạn quá lố, tánh nết nghệ sĩ cứ muốn thêm thắt cho câu chuyện ly kỳ hơn thực tế. Ông ta cũng mang nhiều thành kiến, không ưa người Do Thái và giới tài phiệt.

Ông ta lặp lại:

- Đá Đen. Der schwartze Stein. Nghe như tiểu thuyết ba xu. Lại còn chuyện về Karolides nữa. Chỗ này là điểm yếu nhất của câu chuyện, vì tôi biết chắc ngài Karolides quí hóa coi bộ còn sống lâu hơn cả anh với tôi. Không quốc gia châu Âu nào lại muốn trừ khử ông ta. Vả lại ông ta vừa mới có hành động xuôi theo Berlin và Vienna khiến cho xếp của tôi đau đầu một bữa. Không, Scudder đã lầm chỗ này rồi. Thật tình tôi không tin phần này của câu chuyện. Tôi tin có âm mưu đen tối nào đó mà Scudder lại biết được quá nhiều nên bị mất mạng. Nhưng tôi dám chắc đó chỉ là chuyện do thám thường tình mà thôi. Có cường quốc nọ bên lục địa rất thích mấy trò do thám, mà phương pháp của họ cũng không sạch sẽ gì lắm. Họ trả công theo thành tích nên đám lưu manh tay chân cũng không ngại chuyện giết một hai mạng người. Tôi nghĩ họ muốn biết chúng ta bố trí hạm đội ra sao để cất làm tài liệu ở bộ hải quân thôi chớ không có ý gì khác.

Ngay lúc đó người quản gia bước vô phòng.

- Thưa ông chủ, có điện thoại đường dài từ Luân Đôn. Ông Heath gọi muốn nói chuyện trực tiếp với ông chủ.

Ông chủ nhà đi ra nghe điện thoại. Năm phút sau ông ta quay lại, mặt mày tái nhợt, và nói:

- Tôi phải xin lỗi vong linh của Scudder. Karolides vừa bị bắn chết lúc hơn bảy giờ tối nay.

Saturday, April 14, 2012

Ba mươi chín bậc thang - Chương 6: Trang trại trá hình

Tôi nghỉ đêm trên gờ đất lưng chừng núi sau một tảng đá to, thạch thảo mọc chỗ này có cọng dài và mềm. Tôi bị lạnh vì không mặc cả áo ngoài lẫn áo chẽn, cả hai đang nằm ở nhà ông Turnbull cùng với cuốn sổ của Scudder, chiếc đồng hồ và rủi nhất là ống điếu với túi thuốc lá của tôi. Tôi chỉ còn giữ lại tiền trong thắt lưng và độ nửa cân bánh gừng trong túi quần.

Tôi ăn nửa số bánh để lót dạ bữa tối rồi vùi mình sâu vào đám thạch thảo cho đỡ lạnh. Tôi lên tinh thần, bắt đầu thấy thích cái trò trốn tìm điên rồ này. Cho tới nay tôi đã may mắn lạ kỳ. Người thanh niên giao sữa, anh chủ quán trọ thích văn chương, Sir Harry, ông làm đường và gã Marmie ngu ngốc, tất cả đều do vận may tôi bỗng dưng có được đem tới. Thành công lúc đầu khiến tôi lạc quan và nghĩ mình sẽ vượt qua được mọi chuyện.

Vấn đề lớn nhất lúc này là tôi thấy đói ngấu. Mỗi lần có ông Do Thái nào trong khu tài chính ở Luân Đôn tự bắn vô đầu khiến nhà chức trách sau đó phải thẩm tra, thì báo chí luôn mô tả người quá cố là "ăn uống đầy đủ". Tôi nghĩ rủi như mình té gãy cổ trong hố lầy nào quanh đây thì sẽ chẳng ai nói tôi ăn uống đầy đủ cho được. Mấy cái bánh gừng chỉ tăng thêm cảm giác trống trải trong dạ dày, và tôi nằm đó đau khổ nhớ lại những thức ăn ngon lành mà ở Luân Đôn tôi hầu như không để ý tới. Tôi nhớ món xúc xích chiên dòn, thịt muối và trứng chần nước sôi của Paddock mà mình hay chê. Tôi nhớ đằng câu lạc bộ hay dọn món sườn non, và nhất là trên bàn thịt nguội có một thứ giăm-bông lúc này tôi thèm kinh khủng. Sau khi điểm qua hết các loại thức ăn, cuối cùng tôi chấm món bíp-tếch và bia đắng, tiếp theo là bánh mì tẩm pho-mát nấu chảy trong bia. Tôi ngủ thiếp đi giữa lúc ao ước những món ngon không thể nào có.

Khi tôi tỉnh dậy có lẽ mặt trời đã lên chừng tiếng đồng hồ, người lạnh đơ ra. Mất một lúc tôi mới nhớ được mình đang ở đâu vì đêm qua tôi mệt đừ, ngủ say tít. Mắt tôi mở ra nhìn thấy mảng trời xanh nhạt đằng sau những nhánh thạch thảo đan vào nhau, kế đó là sườn đồi to rộng ngay kề bên, rồi tới đôi giày của tôi nằm gọn gàng trong bụi việt quất. Tôi chống tay nhỏm người nhìn xuống thung lũng và lập tức bật dậy quýnh quáng cột dây giày.

Một toán người đang tỏa ra sục sạo trong đám thạch thảo phía dưới chỗ tôi nằm không quá một phần tư dặm. Marmie đã không bỏ lỡ thì giờ trả thù hành động của tôi chiều hôm qua.

Tôi trườn khỏi gờ đất đang nằm ra khuất sau một tảng đá, rồi từ đó đi tới một rãnh cạn xẻ chéo sườn núi. Lần theo đường rãnh tôi nhanh chóng lọt vào một khe nước hẹp rồi men theo đó leo ngược tới đỉnh núi. Tôi quay lại nhìn và thấy rõ mình chưa bị lộ, những kẻ truy đuổi tôi vẫn còn đang kiên nhẫn sục sạo từng chút ở sườn núi bên dưới và chậm chạp tiến dần lên.

Tôi ráng giữ cho bóng mình thấp hơn đường đỉnh núi trọc in trên nền trời và chạy độ nửa dặm cho tới chỗ giáp mút thung lũng. Tại đây tôi sơ ý nhô mình lên cao, lập tức bị một kẻ ở mé hông toán truy đuổi phát hiện và chỉ ngay cho đồng đội. Tôi nghe tiếng hô hoán vọng lên rồi nhìn thấy hàng người chuyển hướng. Tôi giả bộ vượt qua bên kia đỉnh núi nhưng sau đó lại quay đầu chạy ngược về hướng cũ, sau hai mươi phút tôi đã về tới mặt sau của phần đỉnh núi phía trên chỗ nằm đêm qua. Tôi khoái trá nhìn xuống đám người đang kéo về đầu thung lũng để đuổi theo dấu vết giả của mình.

Trước mặt tôi có nhiều hướng để chọn, và tôi quyết định tiến qua vạt núi đâm xiên góc với nơi tôi đang đứng. Giữa tôi và kẻ thù sẽ cách nhau cả một thung lũng sâu. Máu tôi đã ấm lên nhờ vận động, và trong lòng tôi bắt đầu thấy vui thích kỳ lạ. Tôi vừa đi vừa điểm tâm bằng ít bánh nát còn lại trong túi.

Vùng đất này tôi chỉ biết lờ mờ, và tôi không định trước được mình sẽ phải làm gì. Tôi tin tưởng sức lực đôi chân của mình, nhưng tôi cũng biết bọn người đuổi sau lưng đều thông thạo địa hình nên có lợi thế hơn nhiều. Trước mắt tôi núi non lô xô vươn cao về phía nam, nhưng về phía bắc lại dãn ra thành những dãy đồi thâm thấp cách xa nhau bởi những thung lũng cạn. Vạt núi tôi nhắm tới kéo dài độ một hai dặm rồi đổ xuống một trảng cỏ lọt thỏm giữa vùng đất cao. Đi về hướng đó có lẽ cũng tạm ổn.

Mưu kế của tôi khiến kẻ thù chậm bước khoảng hai mươi phút, và tôi đã vượt hết bề ngang thung lũng rồi mới thấy tốp truy đuổi đầu tiên xuất hiện. Cảnh sát đã huy động dân địa phương vào cuộc, vì những kẻ tôi nhìn thấy có vẻ như dân giữ rừng hoặc chăn bầy. Khi thấy tôi họ hú gọi, và tôi giơ tay vẫy chào. Hai người đâm xuống thung lũng rượt theo, nhưng những người khác vẫn đi tiếp ở sườn núi bên kia. Tôi cảm thấy như đang chơi trò rượt bắt của học trò.

Tuy nhiên cảm giác đùa bỡn nhanh chóng vơi đi. Đuổi theo tôi là những người đàn ông tráng kiện quen sống trên vùng đất này từ nhỏ. Tôi quay lại nhìn thấy chỉ có ba người rượt thẳng đằng sau, số còn lại có lẽ đã vòng đường khác để đón đầu tôi. Rất có thể tôi sẽ bị sa lưới vì không thông thuộc đường đất ở đây, nên tôi nhất quyết ra khỏi đám thung lũng chằng chịt và trốn vào trảng cỏ lúc nãy nhìn thấy từ trên đỉnh núi. Muốn vậy tôi cần phải bứt thật xa khỏi bọn người kia, và điều này tôi có thể làm được nếu có đúng địa thế. Giá như cây cỏ đủ rậm thì tôi đã tìm cách lẻn đi, nhưng sườn dốc tại đây trống trơn đến con ruồi cũng thấy được từ xa cả dặm. Tôi chỉ có thể cậy vào đôi chân dài và buồng phổi khỏe của mình, nhưng tôi cũng cần địa thế thuận lợi một chút vì tôi không phải dân trèo núi. Ước gì tôi có được một chú ngựa non xứ Nam Phi ở đây!

Tôi vụt chạy khỏi vạt núi xuống gần tới trảng cỏ khi chưa có bóng người nào nhô lên khỏi đỉnh núi sau lưng. Tôi băng qua suối tới con đường cái chạy ngoằn ngoèo giữa hai thung lũng. Trước mặt tôi thạch thảo mọc dài lên đỉnh dốc, trên đó có đám cây nhìn là lạ. Bên vệ đường có một bờ rào đắp đất, giữa có cánh cổng. Phía trong cổng là con đường mòn cỏ mọc dẫn lên triền dốc đi vào vùng trảng cỏ.

Tôi nhảy qua bờ rào và theo đường mòn đi lên. Được vài trăm mét, khi đã khuất khỏi đường cái, lối mòn bỗng nhiên sạch cỏ và trở thành con đường đẹp đẽ được săn sóc kỹ càng. Rõ ràng có nhà ở phía trong, và trong bụng tôi cũng muốn vô đó. Cho tới lúc này tôi vẫn còn may mắn, và không chừng tại ngôi nhà xa xôi vắng vẻ kia tôi sẽ tìm được cơ hội thoát thân. Ít ra phía trong đó cũng có cây cối rậm rạp cho tôi ẩn trốn.

Tôi quyết định không đi trên đường mà lần theo dòng suối chảy dọc mé bên phải để được bờ suối cao và những bụi dương xỉ um tùm che khuất. Thật là may, vì tôi vừa bước xuống khe thì ngoái lại đã thấy toán người đuổi theo xuất hiện trên đỉnh đồi tôi vừa chạy khỏi.

Từ lúc đó trở đi tôi không còn kịp quay đầu lại thêm lần nào. Tôi chạy dọc bờ suối, chỗ nào trống trải thì sấp người bò tới trước, còn phần lớn thời gian tôi lội trong lòng suối cạn. Tôi thấy một túp nhà hoang trong sân có mấy đống than bùn cũ và mảnh vườn mọc đầy cỏ dại. Tiếp đó là những bãi cỏ đã cắt non phơi khô, rồi tới rìa một cánh rừng tùng thân bị gió thổi bạt một phía. Tới đây tôi nhìn thấy khói tỏa ra từ một ngôi nhà cách vài trăm yard về bên trái. Tôi rời khỏi bờ suối, lại leo bờ rào và nhanh chóng thấy mình đứng trong một sân cỏ cắt không đều. Tôi ngoái lại nhìn thì biết kẻ thù đã khuất xa, chắc hẳn chúng còn chưa qua khỏi triền dốc ở rìa trảng.

Sân cỏ cắt bằng lưỡi hái nên thấy lởm chởm. Trong sân có mấy luống đỗ quyên cằn cỗi. Một đôi chim màu đen, không phải giống chim vườn thường thấy, bay lên khi tôi bước lại gần. Ngôi nhà trước mặt xây kiểu trang trại vùng trảng, có thêm một chái sơn trắng nổi bật lên. Phía ngoài chái nhà nói trên có một hàng hiên bọc kính, sau lớp kính là gương mặt một người đàn ông lớn tuổi đang hiền lành nhìn tôi.

Tôi rón rén bước tới rìa lối đi rải thứ sỏi thô của miền núi, bước vô cánh cửa hàng hiên để ngỏ. Bên trong là căn phòng sáng sủa dễ chịu, vách kính một bên, bên kia chất đầy sách. Căn phòng phía trong cũng lại có sách. Trên sàn nhà thay cho bàn ghế là những hộp kiểu như trong viện bảo tàng chứa tiền đúc và những công cụ bằng đá hình dáng kỳ lạ.

Ngay giữa phòng có một bàn viết trên mặt bày giấy tờ với mấy cuốn sách để mở, ngồi sau bàn là ông già phúc hậu lúc nãy. Ông ta có gương mặt tròn nhẵn như nhân vật Pickwick trong truyện của Dickens, cặp kính quá khổ trễ xuống mũi, đỉnh đầu láng bóng như đáy chai. Ông ta không hề nhúc nhích khi thấy tôi, chỉ bình thản nhướng mày chờ tôi lên tiếng.

Trong vòng có năm phút không dễ mà giải thích cho một người lạ tôi là ai, cần gì, và thuyết phục được ông ta giúp tôi. Tôi chẳng buồn thử làm gì. Ánh mắt người này có vẻ sắc sảo và tinh tường khiến tôi không thốt được lời nào. Tôi đứng trơ mắt nhìn ông ta, miệng lắp bắp không thành tiếng.

Ông ta từ tốn nói:

- Anh bạn làm gì lật đật quá.

Tôi gật đầu ra dấu về phía cửa sổ. Từ đây nhìn qua khoảng trống giữa cánh rừng có thể thấy một phần trảng cỏ, nơi đó lác đác vài bóng người đang sục sạo trong đám thạch thảo.

- À, tôi hiểu rồi.

Ông ta cầm ống dòm chậm rãi quan sát những bóng người phía xa.

- Trốn tránh pháp luật à? Để từ từ chúng ta sẽ nói chuyện, nhưng ngay bây giờ tôi sẽ không để mấy anh cảnh sát hậu đậu xâm phạm chỗ riêng tư của tôi. Trong phòng làm việc có hai cửa, cứ đi vô cửa bên trái rồi đóng lại. Anh sẽ được an toàn.

Nói xong người đàn ông lạ lùng này lại cầm bút viết tiếp. Tôi nghe lời và thấy mình đứng trong căn buồng hẹp và tối, nồng mùi hóa chất, ánh sáng chỉ lọt vào qua ô cửa sổ nhỏ tí trên cao. Sau lưng tôi cánh cửa khép lại tách một tiếng nghe như cửa két sắt. Một lần nữa tôi lại được che chở bất ngờ.

Tuy nhiên tôi không yên tâm lắm. Ông này có cái gì khiến tôi vừa thắc mắc vừa sợ hãi. Ông ta quá dễ, quá sẵn lòng, gần như đang chờ tôi tới. Đôi mắt ông ta tinh anh phát sợ.

Không có âm thanh nào vọng tới căn buồng tối. Không chừng cảnh sát đang lục soát trong nhà mà tôi không hay. Nếu vậy họ sẽ muốn biết sau cánh cửa này có gì. Tôi ráng kiên nhẫn giữ bình tĩnh và quên đi cơn đói đang giày vò.

Tôi nghĩ tới chuyện vui vẻ hơn. Ông chủ nhà chắc hẳn không từ chối tôi bữa ăn, và tôi bắt đầu hình dung ra một bữa điểm tâm ngon lành. Tôi chỉ cần thịt muối với trứng, nhưng phải nguyên một vạt thịt hông luôn với mấy tá trứng mới đủ. Đang lúc tôi đang nuốt nước miếng thì có tiếng tách, rồi cửa buồng mở ra.

Tôi bước từ tối ra sáng và nhìn thấy ông chủ nhà đang ngồi trên ghế bành trong căn phòng ông ta gọi là phòng làm việc. Ông ta nhìn tôi đầy vẻ tò mò. Tôi hỏi:

- Họ đi hết rồi hả?

- Đi hết rồi. Tôi nói anh đã băng qua bên kia đồi và cuối cùng họ cũng nghe. Tôi không muốn cảnh sát chen vào giữa tôi với người tôi rất vui mừng được quen biết bữa nay. Anh may mắn lắm đó, thưa anh Richard Hannay.

Lúc ông ta nói, mí mắt ông ta dường như rùng một cái rồi kéo xuống che bớt đôi mắt xám sắc lẻm. Tôi vụt nhớ lại mô tả của Scudder về kẻ làm ông ta sợ nhất trên đời. Theo lời Scudder, mí mắt kẻ đó có thể "kéo xuống che lại như mắt diều hâu". Thì ra tôi đã bước thẳng vô sào huyệt kẻ thù.

Phản ứng tức thời của tôi là muốn nhảy tới siết cổ lão già rồi tẩu thoát. Dường như đoán được ý tôi, lão cười nhẹ và gật đầu về phía cánh cửa sau lưng tôi. Tôi vừa quay lại đã thấy hai tên đầy tớ chĩa súng hai bên.

Lão biết tên nhưng không biết mặt tôi. Ý nghĩ trên vụt qua đầu và tôi nhìn thấy cơ hội thoát thân mỏng manh. Tôi nói giọng cục cằn:

- Ông nói cái gì bố ai hiểu cho được. Ông gọi ai là Richard Hannay? Chớ tôi thì tên là Ainslie.

Lão vẫn cười mỉm:

- Thì đã sao? Dĩ nhiên là anh có nhiều tên, nhưng tôi với anh cãi nhau chuyện tên tuổi làm gì.

Tôi đã bình tĩnh lại và nghĩ dù gì tôi cũng không sợ bộ đồ đang mặc, thiếu cả áo khoác lẫn áo chẽn, có thể làm tôi bại lộ được. Tôi làm mặt cau có và nhún vai nói:

- Thì ra ông cũng sẽ nộp tôi cho cảnh sát, ông lừa tôi mà. Trời, phải chi tôi đừng có nhìn thấy cái xe đó! Để tôi trả lại tiền của mấy người.

Tôi ném ra bàn bốn đồng sovereign. Lão ta mở mắt to hơn một chút rồi nói:

- Ồ không đâu, tôi không nộp anh cho cảnh sát đâu. Tôi với mấy người bạn chỉ muốn dàn xếp chuyện riêng với anh thôi mà. Anh biết nhiều quá, anh Hannay. Anh diễn hay lắm, nhưng chưa đủ.

Giọng lão chắc nịch, nhưng tôi cảm được chút nghi vấn vừa chớm trong đầu kẻ thù. Tôi kêu to:

- Thôi đi ông, đừng có nói lung tung nữa. Từ hồi lên bờ ở Leith tới giờ toàn gặp chuyện xui xẻo. Đói quá tôi mới lượm mấy đồng bạc rớt trong cái xe hư chớ có gì ghê gớm đâu. Vậy mà tụi cảnh sát cứ đeo theo rượt làm tôi chạy muốn chết suốt hôm qua tới giờ. Thôi tôi mệt quá rồi, ông muốn làm gì thì làm. Ned Ainslee này chịu thua rồi đó.

Có thể thấy lão già đã thêm phần nghi hoặc. Lão nói:

- Kể tôi nghe anh làm gì mấy bữa nay.

Tôi trả lời giọng than van hệt như kẻ ăn mày:

- Đói quá kể không nổi, ông chủ à. Hai ngày rồi không có miếng gì vô bụng. Cho tôi ăn no rồi tôi sẽ kể hết sự thật đầu đuôi ông nghe.

Mặt tôi lúc đó nhìn chắc đói lắm nên lão ra dấu cho một tên đứng ngay cửa. Hắn đem lại miếng bánh nướng đã nguội với ly bia. Tôi ăn hùng hục như heo, đúng hơn là như anh chàng Ned Ainslee vì tôi đang phải nhập vai anh ta. Giữa lúc tôi ngấu nghiến nhai thì lão già thình lình nói một câu tiếng Đức, nhưng nét mặt tôi vẫn trơ như đá khi quay lại nhìn lão ta.

Sau đó tôi kể chuyện của mình cho lão già nghe. Cách đó một tuần chiếc tàu tôi đi từ Archangel cập bến ở Leith, tôi lên bờ và đi về nhà ông anh ở Wigtown theo đường bộ. Tôi đã cạn tiền - tôi nói bóng gió về chuyện phung phí trước đó - và đang lúc túng quẫn tôi nhìn thấy dấu hàng rào gãy bên đường, bên kia hàng rào có chiếc xe to nằm dưới suối. Tôi tò mò lại gần coi thử có chuyện gì thì thấy trên ghế có ba đồng sovereign, thêm một đồng rớt dưới sàn xe nữa là bốn. Không thấy ai nên tôi lượm hết bỏ túi. Nhưng không hiểu cách nào cảnh sát lại biết được. Lúc tôi vô tiệm bánh đổi tiền lẻ thì bà chủ kêu cảnh sát, rồi lát sau tôi đang rửa mặt dưới suối thì suýt bị túm, tôi phải bỏ áo ngoài mà chạy. Tôi thốt lên:

- Họ muốn lấy lại tiền thì để tôi trả, chớ tôi có xài được đâu. Tại tôi nghèo nên mới bị làm dữ, chớ như ông chủ mà lượm tiền đó thì chẳng ai dám đụng tới.

Lão nói:

- Anh bịa chuyện hay lắm, anh Hannay.

Tôi giận quá la to:

- Giỡn dai quá vậy cha! Đã nói rồi, tên tôi là Ainslee, từ hồi cha sinh mẹ đẻ tới giờ chưa nghe cái tên Hannay lần nào. Thà bị cảnh sát tóm còn hơn ở đây nghe cha lải nhải Hannay này Hannay nọ, lại còn bị hai thằng khỉ đột kia chĩa súng vô đầu nữa... Xin lỗi ông chủ, tôi nóng quá nói bậy. Cảm ơn ông cho ăn, trống đường rồi xin phép ông tôi đi đây.

Rõ ràng lão ta rất bối rối. Lão chưa bao giờ nhìn thấy tôi, và cho là lão có hình của tôi đi nữa thì chắc hẳn bộ dạng tôi lúc này cũng đã khác xa. Ở Luân Đôn tôi bảnh bao chừng nào thì bây giờ lôi thôi lếch thếch chừng nấy.

- Tôi chưa cho anh đi được đâu. Nếu đúng như anh nói thì không có gì phải lo, còn nếu đúng như tôi nghĩ thì anh cứ coi như đã hết thời.

Lão rung chuông, và một tên tay sai thứ ba từ hàng hiên xuất hiện. Lão ra lệnh:

- Chuẩn bị chiếc Lanchester trong vòng năm phút. Cơm trưa cho ba người.

Nói xong lão quay ra nhìn tôi chằm chặp. Với tôi đó là thử thách gay go nhất.

Có cái gì quái đản và quỉ quyệt trong cặp mắt lạnh lùng, hiểm ác, kỳ dị và tinh ranh cực độ của lão già. Tôi bị mê hoặc tưởng như đang nhìn vào mắt rắn. Tôi bị thôi thúc muốn van xin lão ta thương tình tha cho, muốn xin được đứng về phe của lão. Nếu nhớ lại tôi căm ghét bọn chúng tới mức nào thì quí vị sẽ hiểu sự thôi thúc này hoàn toàn là kết quả của đầu óc bị một ý chí mạnh mẽ hơn khuất phục và cưỡng bức. Tuy vậy tôi cũng cầm cự được và lại còn nhe răng cười. Tôi nói với lão:

- Lần sau gặp là ông chủ nhận ra tôi liền đó.

Lão ta nói với một trong hai tên đứng chỗ cửa bằng tiếng Đức:

- Karl, cậu nhốt thằng này vô kho chờ tôi về. Cậu chịu trách nhiệm canh giữ nó cho tôi.

Tôi bị dẫn ra khỏi phòng, mỗi họng súng chĩa một bên tai.



Nhà kho là một căn buồng ẩm ướt trong gian nhà trại cũ. Sàn nhà mấp mô không trải thảm, cũng không có gì để ngồi ngoại trừ một băng ghế học trò. Trong phòng tối như mực vì cửa sổ đều bị bịt kín. Tôi đưa tay sờ soạng thì biết sát vách tường có nhiều thùng và bao đựng thứ gì nặng. Không khí sực mùi mốc meo. Bọn canh tù vặn chìa khóa cửa lại, và tôi nghe tiếng chân chúng xê dịch trong lúc đứng gác bên ngoài.

Tôi ngồi xuống trong bóng tối lạnh lẽo, trong lòng hết sức lo sợ. Lão già đã đi đón hai tên hỏi chuyện tôi hôm qua. Bọn chúng đã nhìn thấy tôi giả dạng phu làm đường và sẽ nhận ngay ra tôi, vì tôi vẫn mặc cùng một bộ đồ. Phu làm đường gì lại ở xa chỗ làm tới hai chục dặm, lại còn bị cảnh sát rượt đuổi nữa? Chúng chỉ cần hỏi một hai câu là ra manh mối. Có thể chúng đã gặp ông lão Turnbull, hay cả thằng Marmie nữa không chừng. Rất có thể chúng đã biết được liên hệ giữa tôi với Sir Harry, nếu vậy thì mọi chuyện thành ra rõ như ban ngày. Tại căn nhà giữa đồng hoang này tôi làm cách gì chống nổi ba tên tội phạm liều mạng cùng với bọn tay sai cầm súng của chúng?

Tôi bắt đầu thấy tiêng tiếc khi nghĩ tới mấy ông cảnh sát giờ này đang lội núi đuổi theo cái bóng ma của tôi. Dù gì thì họ cũng là đồng bào lương thiện, lọt vô tay họ cũng đỡ hơn bọn ngoại tộc ma quái này. Nhưng chắc gì họ sẽ nghe tôi. Lão già quỉ quái hồi nãy đã nhanh chóng thuyết phục được họ đi chỗ khác. Tôi nghĩ lão chắc có thông đồng gì với cảnh sát, hay nhiều khả năng hơn là lão có giấy tờ gì của mấy ông bộ trưởng yêu cầu các cấp tạo mọi điều kiện để quí ông đây tự do mưu đồ chống lại nước Anh. Chẳng phải đó là cách thức khôn ngoan mà nền chính trị xứ này đang vận hành hay sao?

Cả ba tên sẽ về đây ăn trưa, nghĩa là tôi chỉ phải chờ không quá hai giờ. Chỉ là chờ chết mà thôi, vì tôi không thấy có cách nào thoát ra cho được. Tôi ước ao mình có được lòng can đảm của Scudder, vì quả thật là tôi thiếu gan lì. Tôi chưa mất hết tinh thần là nhờ cơn tức giận đang bừng dậy. Tôi phẫn nộ khi nghĩ mình lại thua đám lưu manh kia. Tôi hy vọng sẽ vặn cổ được một tên trước khi bị chúng hạ sát.

Càng nghĩ càng thấy tức khiến tôi không thể ngồi yên. Tôi thử mở cửa sổ nhưng cửa đã bị khóa nên không nhúc nhích. Có tiếng gà mái cục cục trong nắng ấm vẳng lại từ phía ngoài. Tôi mò mẫm trong đám thùng và bao. Tôi không mở được mấy cái thùng, còn mớ bao thì chứa đầy thứ gì hình thù giống như bánh cho chó nhưng có mùi quế. Khi rà quanh phòng tay tôi đụng phải một cán cầm trên vách khiến tôi lấy làm tò mò.

Thì ra chỗ đó là cánh cửa của một tủ chìm trong tường, nhưng cửa lại bị khóa. Tôi lắc thử thì thấy cửa không chắc lắm. Không có chuyện gì làm nên tôi dùng dây đeo quần quấn mấy vòng quanh nắm cửa rồi lấy hết sức kéo mạnh. Cánh cửa gãy rầm một tiếng, tôi nghĩ bọn canh gác chắc sẽ vô coi có chuyện gì. Chờ mấy phút không thấy động tĩnh, tôi bắt đầu sờ soạng trong mấy ngăn tủ.

Trong tủ chứa đầy những đồ vật lạ. Tôi lục túi quần kiếm được vài que diêm đánh lên. Ánh sáng lóe lên chỉ một giây đồng hồ nhưng đủ cho tôi thấy trên kệ có mấy chiếc đèn pin. Tôi lấy một chiếc thử thì đèn vẫn tốt.

Có đèn trong tay tôi bèn lục lạo tiếp. Tôi thấy nhiều chai và hộp đựng chất gì mùi là lạ chắc là hóa chất để thí nghiệm, nhiều cuộn dây đồng mảnh và rất nhiều lụa mỏng tẩm dầu. Có một hộp ngòi nổ với nhiều dây mồi. Sát vách tủ tôi tìm được một thùng cạc-tông cứng cáp màu nâu bên trong có một hộp gỗ, tôi nạy ra thấy mấy miếng nhỏ màu xám, mỗi miếng rộng một hai inch vuông.

Tôi cầm lên một miếng thấy nó bể ra trong tay. Tôi ngửi và nếm thử, rồi ngồi xuống suy nghĩ. Tôi làm kỹ sư mỏ nên biết thứ chất nổ lentonite này.

Chỉ cần một miếng như vầy là đủ cho tôi nổ nát banh cái nhà này lên. Hồi ở Rhodesia tôi đã dùng rồi và biết rõ sức công phá của nó. Vấn đề là tôi không còn nhớ rõ chi tiết như dùng bao nhiêu thuốc, trộn làm sao, cháy bao lâu thì nổ. Tôi cũng chỉ nhớ lờ mờ về sức công phá vì lúc trước tôi không tự tay chuẩn bị mà sai người khác làm.

Nhưng đây là cơ hội duy nhất cho tôi. Rủi ro tuy rất cao nhưng còn hơn là chết chắc. Nếu tôi cho nổ chỗ này thì khả năng năm chọi một tôi sẽ banh xác văng lên ngọn cây, nhưng nếu không làm vậy chắc chắn tối nay tôi sẽ nằm yên dưới mấy thước đất. Tôi đã ở trong thế đường nào cũng tối đen, nhưng tôi phải chọn con đường nào còn đem lại được chút hy vọng nhỏ nhoi cho bản thân và cho đất nước.

Ký ức về ông Scudder bé nhỏ khiến tôi quyết định dứt khoát. Đây là giây phút cực kỳ khó khăn vì tôi không quen chuyện tính toán lạnh lùng. Tuy vậy tôi cũng thu được can đảm, nghiến răng và nén chặt cảm giác hoài nghi khủng khiếp xuống ngực. Tôi ép mình không suy nghĩ gì thêm, giả vờ như đang làm thí nghiệm đơn giản kiểu như đốt pháo bông.

Tôi lấy chiếc ngòi nổ nối vô vài inch dây mồi. Tiếp đó tôi lấy một phần tư bánh lentonite nhét xuống khe nứt trên sàn bên dưới một chiếc bao gần cửa buồng, rồi gắn ngòi nổ vào. Mớ thùng chất trong buồng không chừng đựng đầy chất nổ cũng nên, trong tủ có thì tại sao trong thùng lại không? Nếu đúng vậy thì chút nữa đây tôi với bọn đầy tớ người Đức cùng mọi thứ khác trong vòng nửa mẫu đất chung quanh sẽ tung hết lên trời trong ánh lửa rực rỡ. Cũng có khả năng mớ thuốc trong tủ sẽ nổ theo, tôi đã quên gần hết những gì biết được về lentonite nên không dám chắc. Nhưng cứ nghĩ về những điều có thể xảy ra thì ích lợi gì. Rủi ro quá sức lớn, nhưng tôi buộc phải chấp nhận.

Tôi nép người dưới bậu cửa sổ, châm dây mồi rồi chờ mấy giây. Chung quanh yên lặng như tờ, chỉ có tiếng giày nặng nề lê trong hành lang và gà mái kêu cục cục bình yên ngoài sân nắng. Tôi giao phó linh hồn cho Tạo Hóa và thầm nghĩ không biết năm giây nữa mình sẽ ở đâu.

Một làn khí nóng bỏng từ dưới sàn ập lên rồi lơ lửng bất động trong khoảnh khắc. Bức tường trước mặt tôi tóe lửa vàng rồi tan biến trong tiếng nổ đinh tai khiến óc tôi tưởng chừng nát nhừ. Chỏm vai bên trái của tôi bị vật gì rớt trúng. Sau đó tôi ngất đi.

Chắc hẳn tôi bất tỉnh chỉ trong vài giây. Tôi gần như ngạt thở trong đám khói dày màu vàng, loạng choạng đứng dậy giữa căn phòng đổ nát. Tôi cảm thấy sau lưng có không khí mát, quay lại nhìn thấy hai bên khung cửa sổ đã rớt xuống và khói tuồn qua lỗ hổng tràn ra ngoài trời hè buổi trưa. Tôi bước qua thanh ngang ô cửa đã gãy, ra tới mảnh sân dày đặc khói cay sè. Người tôi xây xẩm, nhưng chân tay còn cử động được. Tôi lảo đảo bước ra xa ngôi nhà mà không cần biết mình đi đâu.

Bên kia mảnh sân có một máng gỗ to dẫn nước tới guồng cối xay. Tôi ngã vô máng, nước lạnh khiến tôi tỉnh lại và còn đủ tâm trí để nghĩ tới chuyện thoát thân. Tôi trườn dọc máng nước phủ rêu trơn cho tới chỗ guồng quay, rồi chui qua lỗ trục guồng rơi xuống đống trấu trong gian nhà xay cũ kỹ. Đáy quần tôi móc vô một cây đinh, bỏ lại đằng sau túm vải xám.

Nhà xay lúa này đã bỏ phế từ lâu. Cầu thang đã cũ mục, và trên gác chuột đã gặm lủng sàn gỗ. Tôi thấy buồn nôn, đầu óc choáng váng trong lúc cánh tay và vai bên trái tê dại như bị liệt. Tôi nhìn ra cửa sổ thấy căn nhà còn bị phủ mờ và khói bốc ra từ một cửa sổ tầng trên. Tôi nghe tiếng kêu quýnh quáng vọng lại, thì ra nhờ trời tôi đã làm cháy luôn hang ổ của kẻ thù.

Nhưng tôi không thể nán lại lâu, vì đây không phải là chỗ để trốn. Kẻ thù sẽ khởi sự lùng sục ngay khi không tìm thấy xác tôi trong nhà kho, và chắc chắn chúng sẽ lần theo máng nước. Nhìn qua một cửa sổ khác tôi thấy từ nhà xay lúa đi ra phía xa có một chuồng bồ câu cũ xây bằng đá. Tôi có thể qua trốn bên đó miễn là không để lại dấu vết gì trên đường đi. Về phía kẻ thù, chúng sẽ tin rằng tôi đã tìm cách chạy khỏi đây và do vậy sẽ tìm bắt tôi ngoài trảng.

Tôi lần xuống chiếc thang gãy, rải trấu đằng sau để che dấu chân. Tôi cũng rải trấu trên sàn nhà cho tới ngạch cửa, phần trên cánh cửa đã xệ xuống vì sút bản lề. Len lén nhìn ra ngoài tôi thấy giữa chỗ tôi đứng và chuồng bồ câu là một vạt đất trống đầy sỏi, dấu chân không thể in xuống. May mắn nữa là vạt đất được nhà xay lúa che khuất, từ ngôi nhà chính không nhìn thấy được. Tôi rón rén băng qua khoảng trống tới mặt sau của chuồng bồ câu và tìm cách trèo lên.

Đây là một trong những việc khó khăn nhất tôi từng phải làm trong đời. Vai và cánh tay tôi đau buốt trong lúc đầu óc xây xẩm làm tôi lúc nào cũng chực té, nhưng tôi vẫn tiếp tục leo. Bám vào vài gờ đá nhô ra, ít lổ hổng trong tường và một rễ thường xuân chắc cứng, cuối cùng tôi cũng lên tới đỉnh chuồng bồ câu. Tôi nằm vật xuống phía sau bờ lan can nhỏ rồi lịm đi.

Tôi tỉnh dậy đầu sốt bừng bừng, nắng gắt rọi thẳng vô mặt. Tôi nằm bất động lúc lâu vì khói thuốc nổ khiến khớp xương tôi rã rời còn đầu óc mụ mẫm đi. Từ phía ngôi nhà vọng lại tiếng người nói giọng họng và tiếng gầm từng đợt của xe nổ máy chờ. Tôi nhích tới gần khoảng trống giữa lan can, từ đây có thể nhìn sơ qua sân trại. Tôi thấy có người trong nhà đi ra, một gã đầy tớ đầu quấn băng rồi tới một tên trẻ hơn mặc quần thụng gối. Bọn chúng tìm kiếm quanh đó rồi tiến về phía nhà xay lúa. Một tên bắt gặp túm vải mắc trên cây đinh, kêu tên kia lại chỉ. Cả hai quay vô nhà dẫn thêm hai tên nữa ra nhìn. Tôi thấy dáng tròn trịa của lão già đã bắt tôi, đồng thời nhận ra tên nói lắp. Tên nào tay cũng lăm lăm súng.

Bọn chúng lục tung nhà xay lúa suốt nửa tiếng đồng hồ. Tôi nghe tiếng chúng đá thùng và nhổ ván sàn đã mục lên. Rồi chúng bước ra ngoài đứng ngay dưới chuồng bồ câu tranh cãi gay gắt. Tên đầy tớ đầu quấn băng bị mắng chửi không tiếc lời. Tôi nghe tiếng chúng thử lắc cánh cửa phía dưới mà tim thót lại vì sợ. May sao bọn chúng đổi ý và quay gót trở lại nhà.

Suốt buổi chiều hôm đó tôi nằm phơi mình dưới ánh nắng rốc da trên nóc chuồng bồ câu. Tôi khổ sở nhất vì khát. Lưỡi tôi khô như khúc củi, đau khổ hơn nữa là từ chỗ tôi nằm có thể nghe tiếng nước mát lạnh róc rách trong đường máng chạy guồng cối xay. Tôi nhìn dọc theo con suối nhỏ từ ngoài trảng chảy vô. Trong tưởng tượng tôi lần ngược dòng suối tới tận đầu thung lũng là nơi nước nguồn lạnh băng phun ra giữa đám rêu và dương xỉ vây quanh, và tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được vục mặt vào đó.

Từ chỗ nấp tôi có thể nhìn thấy một vòng trảng cỏ rộng lớn. Tôi thấy chiếc xe chở hai tên chạy đi, một tên nữa cỡi ngựa phóng về phía đông. Tôi biết chúng đang lên đường tìm tôi và thầm chúc chúng đi một chuyến vui vẻ.

Tuy nhiên có chuyện đáng quan tâm hơn nhiều. Ngôi nhà nằm gần đỉnh một vồng đất cao giữa trảng, chung quanh không còn gì cao hơn ngoại trừ những đỉnh núi cách đó sáu dặm. Ngay trên đỉnh là một cụm rừng, hầu hết là tùng với một ít dẻ và tần bì. Nóc chuồng bồ câu gần ngang tầm với ngọn cây nên tôi có thể nhìn thấy ra sau đám cây. Thì ra cụm rừng không mọc sâu vô trong mà chỉ viền quanh một vạt cỏ rộng hình bầu dục giống như sân chơi cricket cỡ lớn.

Tôi không phải mất nhiều thì giờ mới đoán ra đó là một sân bay bí mật. Địa điểm được chọn quả rất khéo. Ngọn đồi này nhô cao hơn hết thảy vùng đất rộng chung quanh, thành thử nếu có ai quan sát máy bay hạ cánh thì sẽ lầm tưởng nó đã bay khuất sau đồi cây cho dù người đó nhìn từ phía nào đi nữa. Chỉ có ai đứng rất gần thì mới nhận ra chiếc máy bay không bay qua bên kia đồi mà hạ cánh ngay giữa rừng. Từ những đỉnh núi cao hơn đằng xa nếu dùng ống dòm thì có thể khám phá được sự thật, nhưng chỉ có người chăn bầy mới lên trên đó, mà người chăn bầy thì không cầm theo ống dòm. Từ nóc chuồng bồ câu nhìn ra tôi thấy một đường màu xanh ở xa xa. Tôi biết nơi đó là biển, và trong lòng thấy phẫn nộ khi kẻ thù lại có được cái trạm quan sát bí mật này để mặc tình do thám thủy lộ của chúng ta.

Tới đây tôi nghĩ nếu máy bay của kẻ thù trở về thì khả năng mười chọi một tôi sẽ bị lộ. Suốt buổi chiều tôi nằm đó mong cho trời mau tối, và tôi hết sức mừng rỡ khi mặt trời xuống khuất sau dãy núi cao phía tây rồi bóng mờ hoàng hôn trùm xuống vùng trảng cỏ. Chiếc máy bay trở về khá muộn. Trời đã tối lắm khi tôi nghe tiếng cánh lướt gió và nhìn nó êm ru hạ xuống ngay giữa rừng. Có ánh đèn nhấp nháy một lúc, tiếng người đi lại lao xao từ nhà tới bãi đáp, rồi màn đêm buông trong yên lặng.

May mắn là trời tối đen. Đã gần cuối chu kỳ nên còn lâu trăng mới lên. Tôi quá khát nên không thể chần chờ, tới khoảng chín giờ tôi bắt đầu trèo xuống. Việc này cũng không dễ dàng gì, đang xuống được nửa chừng tôi nghe cửa sau nhà trại mở và có ánh đèn hắt lên vách nhà xay lúa. Tôi kinh hoảng bám chặt sợi dây leo suốt mấy phút căng thẳng, trong bụng cầu cho kẻ nào cầm đèn đừng tới gần chuồng bồ câu. Rồi ánh đèn biến mất, và tôi ráng buông mình thật nhẹ xuống sân đất cứng.

Tôi bò đằng sau một bờ rào đá cho tới ven đám cây bao quanh khu nhà. Nếu biết cách thì tôi đã phá cho hư chiếc máy bay, nhưng tôi nghĩ mình chẳng làm gì được đành thôi. Tôi tin chắc chung quanh khu nhà thế nào cũng có hệ thống bảo vệ nên chống tay bò qua cánh rừng, để ý từng tấc đất trước mặt. Đúng như tôi nghĩ, chỉ lát sau trước mặt tôi là một sợi dây căng ngang cách mặt đất khoảng hai feet. Chỉ cần tôi vấp sợi dây này thì trong nhà sẽ có chuông báo động và tôi sẽ lại sa vào tay kẻ thù.

Sau đó chừng một trăm yard lại có sợi dây thứ hai chăng rất lợi hại ngay mép suối. Bên kia suối là trảng cỏ rộng, năm phút sau tôi đã lút giữa đám dương xỉ và thạch thảo. Chẳng mấy chốc tôi đã vòng qua bên kia đồi, lọt vào thung lũng hẹp nơi có dòng suối chảy vô guồng cối xay lúc nãy. Mười phút sau tôi gục mặt trong làn nước mát lành, uống cho đến lúc thỏa thuê.

Nhưng tôi không dừng lại cho tới khi đã cách khu trại chết toi kia nhiều dặm đường.