Saturday, April 14, 2012

Ba mươi chín bậc thang - Chương 6: Trang trại trá hình

Tôi nghỉ đêm trên gờ đất lưng chừng núi sau một tảng đá to, thạch thảo mọc chỗ này có cọng dài và mềm. Tôi bị lạnh vì không mặc cả áo ngoài lẫn áo chẽn, cả hai đang nằm ở nhà ông Turnbull cùng với cuốn sổ của Scudder, chiếc đồng hồ và rủi nhất là ống điếu với túi thuốc lá của tôi. Tôi chỉ còn giữ lại tiền trong thắt lưng và độ nửa cân bánh gừng trong túi quần.

Tôi ăn nửa số bánh để lót dạ bữa tối rồi vùi mình sâu vào đám thạch thảo cho đỡ lạnh. Tôi lên tinh thần, bắt đầu thấy thích cái trò trốn tìm điên rồ này. Cho tới nay tôi đã may mắn lạ kỳ. Người thanh niên giao sữa, anh chủ quán trọ thích văn chương, Sir Harry, ông làm đường và gã Marmie ngu ngốc, tất cả đều do vận may tôi bỗng dưng có được đem tới. Thành công lúc đầu khiến tôi lạc quan và nghĩ mình sẽ vượt qua được mọi chuyện.

Vấn đề lớn nhất lúc này là tôi thấy đói ngấu. Mỗi lần có ông Do Thái nào trong khu tài chính ở Luân Đôn tự bắn vô đầu khiến nhà chức trách sau đó phải thẩm tra, thì báo chí luôn mô tả người quá cố là "ăn uống đầy đủ". Tôi nghĩ rủi như mình té gãy cổ trong hố lầy nào quanh đây thì sẽ chẳng ai nói tôi ăn uống đầy đủ cho được. Mấy cái bánh gừng chỉ tăng thêm cảm giác trống trải trong dạ dày, và tôi nằm đó đau khổ nhớ lại những thức ăn ngon lành mà ở Luân Đôn tôi hầu như không để ý tới. Tôi nhớ món xúc xích chiên dòn, thịt muối và trứng chần nước sôi của Paddock mà mình hay chê. Tôi nhớ đằng câu lạc bộ hay dọn món sườn non, và nhất là trên bàn thịt nguội có một thứ giăm-bông lúc này tôi thèm kinh khủng. Sau khi điểm qua hết các loại thức ăn, cuối cùng tôi chấm món bíp-tếch và bia đắng, tiếp theo là bánh mì tẩm pho-mát nấu chảy trong bia. Tôi ngủ thiếp đi giữa lúc ao ước những món ngon không thể nào có.

Khi tôi tỉnh dậy có lẽ mặt trời đã lên chừng tiếng đồng hồ, người lạnh đơ ra. Mất một lúc tôi mới nhớ được mình đang ở đâu vì đêm qua tôi mệt đừ, ngủ say tít. Mắt tôi mở ra nhìn thấy mảng trời xanh nhạt đằng sau những nhánh thạch thảo đan vào nhau, kế đó là sườn đồi to rộng ngay kề bên, rồi tới đôi giày của tôi nằm gọn gàng trong bụi việt quất. Tôi chống tay nhỏm người nhìn xuống thung lũng và lập tức bật dậy quýnh quáng cột dây giày.

Một toán người đang tỏa ra sục sạo trong đám thạch thảo phía dưới chỗ tôi nằm không quá một phần tư dặm. Marmie đã không bỏ lỡ thì giờ trả thù hành động của tôi chiều hôm qua.

Tôi trườn khỏi gờ đất đang nằm ra khuất sau một tảng đá, rồi từ đó đi tới một rãnh cạn xẻ chéo sườn núi. Lần theo đường rãnh tôi nhanh chóng lọt vào một khe nước hẹp rồi men theo đó leo ngược tới đỉnh núi. Tôi quay lại nhìn và thấy rõ mình chưa bị lộ, những kẻ truy đuổi tôi vẫn còn đang kiên nhẫn sục sạo từng chút ở sườn núi bên dưới và chậm chạp tiến dần lên.

Tôi ráng giữ cho bóng mình thấp hơn đường đỉnh núi trọc in trên nền trời và chạy độ nửa dặm cho tới chỗ giáp mút thung lũng. Tại đây tôi sơ ý nhô mình lên cao, lập tức bị một kẻ ở mé hông toán truy đuổi phát hiện và chỉ ngay cho đồng đội. Tôi nghe tiếng hô hoán vọng lên rồi nhìn thấy hàng người chuyển hướng. Tôi giả bộ vượt qua bên kia đỉnh núi nhưng sau đó lại quay đầu chạy ngược về hướng cũ, sau hai mươi phút tôi đã về tới mặt sau của phần đỉnh núi phía trên chỗ nằm đêm qua. Tôi khoái trá nhìn xuống đám người đang kéo về đầu thung lũng để đuổi theo dấu vết giả của mình.

Trước mặt tôi có nhiều hướng để chọn, và tôi quyết định tiến qua vạt núi đâm xiên góc với nơi tôi đang đứng. Giữa tôi và kẻ thù sẽ cách nhau cả một thung lũng sâu. Máu tôi đã ấm lên nhờ vận động, và trong lòng tôi bắt đầu thấy vui thích kỳ lạ. Tôi vừa đi vừa điểm tâm bằng ít bánh nát còn lại trong túi.

Vùng đất này tôi chỉ biết lờ mờ, và tôi không định trước được mình sẽ phải làm gì. Tôi tin tưởng sức lực đôi chân của mình, nhưng tôi cũng biết bọn người đuổi sau lưng đều thông thạo địa hình nên có lợi thế hơn nhiều. Trước mắt tôi núi non lô xô vươn cao về phía nam, nhưng về phía bắc lại dãn ra thành những dãy đồi thâm thấp cách xa nhau bởi những thung lũng cạn. Vạt núi tôi nhắm tới kéo dài độ một hai dặm rồi đổ xuống một trảng cỏ lọt thỏm giữa vùng đất cao. Đi về hướng đó có lẽ cũng tạm ổn.

Mưu kế của tôi khiến kẻ thù chậm bước khoảng hai mươi phút, và tôi đã vượt hết bề ngang thung lũng rồi mới thấy tốp truy đuổi đầu tiên xuất hiện. Cảnh sát đã huy động dân địa phương vào cuộc, vì những kẻ tôi nhìn thấy có vẻ như dân giữ rừng hoặc chăn bầy. Khi thấy tôi họ hú gọi, và tôi giơ tay vẫy chào. Hai người đâm xuống thung lũng rượt theo, nhưng những người khác vẫn đi tiếp ở sườn núi bên kia. Tôi cảm thấy như đang chơi trò rượt bắt của học trò.

Tuy nhiên cảm giác đùa bỡn nhanh chóng vơi đi. Đuổi theo tôi là những người đàn ông tráng kiện quen sống trên vùng đất này từ nhỏ. Tôi quay lại nhìn thấy chỉ có ba người rượt thẳng đằng sau, số còn lại có lẽ đã vòng đường khác để đón đầu tôi. Rất có thể tôi sẽ bị sa lưới vì không thông thuộc đường đất ở đây, nên tôi nhất quyết ra khỏi đám thung lũng chằng chịt và trốn vào trảng cỏ lúc nãy nhìn thấy từ trên đỉnh núi. Muốn vậy tôi cần phải bứt thật xa khỏi bọn người kia, và điều này tôi có thể làm được nếu có đúng địa thế. Giá như cây cỏ đủ rậm thì tôi đã tìm cách lẻn đi, nhưng sườn dốc tại đây trống trơn đến con ruồi cũng thấy được từ xa cả dặm. Tôi chỉ có thể cậy vào đôi chân dài và buồng phổi khỏe của mình, nhưng tôi cũng cần địa thế thuận lợi một chút vì tôi không phải dân trèo núi. Ước gì tôi có được một chú ngựa non xứ Nam Phi ở đây!

Tôi vụt chạy khỏi vạt núi xuống gần tới trảng cỏ khi chưa có bóng người nào nhô lên khỏi đỉnh núi sau lưng. Tôi băng qua suối tới con đường cái chạy ngoằn ngoèo giữa hai thung lũng. Trước mặt tôi thạch thảo mọc dài lên đỉnh dốc, trên đó có đám cây nhìn là lạ. Bên vệ đường có một bờ rào đắp đất, giữa có cánh cổng. Phía trong cổng là con đường mòn cỏ mọc dẫn lên triền dốc đi vào vùng trảng cỏ.

Tôi nhảy qua bờ rào và theo đường mòn đi lên. Được vài trăm mét, khi đã khuất khỏi đường cái, lối mòn bỗng nhiên sạch cỏ và trở thành con đường đẹp đẽ được săn sóc kỹ càng. Rõ ràng có nhà ở phía trong, và trong bụng tôi cũng muốn vô đó. Cho tới lúc này tôi vẫn còn may mắn, và không chừng tại ngôi nhà xa xôi vắng vẻ kia tôi sẽ tìm được cơ hội thoát thân. Ít ra phía trong đó cũng có cây cối rậm rạp cho tôi ẩn trốn.

Tôi quyết định không đi trên đường mà lần theo dòng suối chảy dọc mé bên phải để được bờ suối cao và những bụi dương xỉ um tùm che khuất. Thật là may, vì tôi vừa bước xuống khe thì ngoái lại đã thấy toán người đuổi theo xuất hiện trên đỉnh đồi tôi vừa chạy khỏi.

Từ lúc đó trở đi tôi không còn kịp quay đầu lại thêm lần nào. Tôi chạy dọc bờ suối, chỗ nào trống trải thì sấp người bò tới trước, còn phần lớn thời gian tôi lội trong lòng suối cạn. Tôi thấy một túp nhà hoang trong sân có mấy đống than bùn cũ và mảnh vườn mọc đầy cỏ dại. Tiếp đó là những bãi cỏ đã cắt non phơi khô, rồi tới rìa một cánh rừng tùng thân bị gió thổi bạt một phía. Tới đây tôi nhìn thấy khói tỏa ra từ một ngôi nhà cách vài trăm yard về bên trái. Tôi rời khỏi bờ suối, lại leo bờ rào và nhanh chóng thấy mình đứng trong một sân cỏ cắt không đều. Tôi ngoái lại nhìn thì biết kẻ thù đã khuất xa, chắc hẳn chúng còn chưa qua khỏi triền dốc ở rìa trảng.

Sân cỏ cắt bằng lưỡi hái nên thấy lởm chởm. Trong sân có mấy luống đỗ quyên cằn cỗi. Một đôi chim màu đen, không phải giống chim vườn thường thấy, bay lên khi tôi bước lại gần. Ngôi nhà trước mặt xây kiểu trang trại vùng trảng, có thêm một chái sơn trắng nổi bật lên. Phía ngoài chái nhà nói trên có một hàng hiên bọc kính, sau lớp kính là gương mặt một người đàn ông lớn tuổi đang hiền lành nhìn tôi.

Tôi rón rén bước tới rìa lối đi rải thứ sỏi thô của miền núi, bước vô cánh cửa hàng hiên để ngỏ. Bên trong là căn phòng sáng sủa dễ chịu, vách kính một bên, bên kia chất đầy sách. Căn phòng phía trong cũng lại có sách. Trên sàn nhà thay cho bàn ghế là những hộp kiểu như trong viện bảo tàng chứa tiền đúc và những công cụ bằng đá hình dáng kỳ lạ.

Ngay giữa phòng có một bàn viết trên mặt bày giấy tờ với mấy cuốn sách để mở, ngồi sau bàn là ông già phúc hậu lúc nãy. Ông ta có gương mặt tròn nhẵn như nhân vật Pickwick trong truyện của Dickens, cặp kính quá khổ trễ xuống mũi, đỉnh đầu láng bóng như đáy chai. Ông ta không hề nhúc nhích khi thấy tôi, chỉ bình thản nhướng mày chờ tôi lên tiếng.

Trong vòng có năm phút không dễ mà giải thích cho một người lạ tôi là ai, cần gì, và thuyết phục được ông ta giúp tôi. Tôi chẳng buồn thử làm gì. Ánh mắt người này có vẻ sắc sảo và tinh tường khiến tôi không thốt được lời nào. Tôi đứng trơ mắt nhìn ông ta, miệng lắp bắp không thành tiếng.

Ông ta từ tốn nói:

- Anh bạn làm gì lật đật quá.

Tôi gật đầu ra dấu về phía cửa sổ. Từ đây nhìn qua khoảng trống giữa cánh rừng có thể thấy một phần trảng cỏ, nơi đó lác đác vài bóng người đang sục sạo trong đám thạch thảo.

- À, tôi hiểu rồi.

Ông ta cầm ống dòm chậm rãi quan sát những bóng người phía xa.

- Trốn tránh pháp luật à? Để từ từ chúng ta sẽ nói chuyện, nhưng ngay bây giờ tôi sẽ không để mấy anh cảnh sát hậu đậu xâm phạm chỗ riêng tư của tôi. Trong phòng làm việc có hai cửa, cứ đi vô cửa bên trái rồi đóng lại. Anh sẽ được an toàn.

Nói xong người đàn ông lạ lùng này lại cầm bút viết tiếp. Tôi nghe lời và thấy mình đứng trong căn buồng hẹp và tối, nồng mùi hóa chất, ánh sáng chỉ lọt vào qua ô cửa sổ nhỏ tí trên cao. Sau lưng tôi cánh cửa khép lại tách một tiếng nghe như cửa két sắt. Một lần nữa tôi lại được che chở bất ngờ.

Tuy nhiên tôi không yên tâm lắm. Ông này có cái gì khiến tôi vừa thắc mắc vừa sợ hãi. Ông ta quá dễ, quá sẵn lòng, gần như đang chờ tôi tới. Đôi mắt ông ta tinh anh phát sợ.

Không có âm thanh nào vọng tới căn buồng tối. Không chừng cảnh sát đang lục soát trong nhà mà tôi không hay. Nếu vậy họ sẽ muốn biết sau cánh cửa này có gì. Tôi ráng kiên nhẫn giữ bình tĩnh và quên đi cơn đói đang giày vò.

Tôi nghĩ tới chuyện vui vẻ hơn. Ông chủ nhà chắc hẳn không từ chối tôi bữa ăn, và tôi bắt đầu hình dung ra một bữa điểm tâm ngon lành. Tôi chỉ cần thịt muối với trứng, nhưng phải nguyên một vạt thịt hông luôn với mấy tá trứng mới đủ. Đang lúc tôi đang nuốt nước miếng thì có tiếng tách, rồi cửa buồng mở ra.

Tôi bước từ tối ra sáng và nhìn thấy ông chủ nhà đang ngồi trên ghế bành trong căn phòng ông ta gọi là phòng làm việc. Ông ta nhìn tôi đầy vẻ tò mò. Tôi hỏi:

- Họ đi hết rồi hả?

- Đi hết rồi. Tôi nói anh đã băng qua bên kia đồi và cuối cùng họ cũng nghe. Tôi không muốn cảnh sát chen vào giữa tôi với người tôi rất vui mừng được quen biết bữa nay. Anh may mắn lắm đó, thưa anh Richard Hannay.

Lúc ông ta nói, mí mắt ông ta dường như rùng một cái rồi kéo xuống che bớt đôi mắt xám sắc lẻm. Tôi vụt nhớ lại mô tả của Scudder về kẻ làm ông ta sợ nhất trên đời. Theo lời Scudder, mí mắt kẻ đó có thể "kéo xuống che lại như mắt diều hâu". Thì ra tôi đã bước thẳng vô sào huyệt kẻ thù.

Phản ứng tức thời của tôi là muốn nhảy tới siết cổ lão già rồi tẩu thoát. Dường như đoán được ý tôi, lão cười nhẹ và gật đầu về phía cánh cửa sau lưng tôi. Tôi vừa quay lại đã thấy hai tên đầy tớ chĩa súng hai bên.

Lão biết tên nhưng không biết mặt tôi. Ý nghĩ trên vụt qua đầu và tôi nhìn thấy cơ hội thoát thân mỏng manh. Tôi nói giọng cục cằn:

- Ông nói cái gì bố ai hiểu cho được. Ông gọi ai là Richard Hannay? Chớ tôi thì tên là Ainslie.

Lão vẫn cười mỉm:

- Thì đã sao? Dĩ nhiên là anh có nhiều tên, nhưng tôi với anh cãi nhau chuyện tên tuổi làm gì.

Tôi đã bình tĩnh lại và nghĩ dù gì tôi cũng không sợ bộ đồ đang mặc, thiếu cả áo khoác lẫn áo chẽn, có thể làm tôi bại lộ được. Tôi làm mặt cau có và nhún vai nói:

- Thì ra ông cũng sẽ nộp tôi cho cảnh sát, ông lừa tôi mà. Trời, phải chi tôi đừng có nhìn thấy cái xe đó! Để tôi trả lại tiền của mấy người.

Tôi ném ra bàn bốn đồng sovereign. Lão ta mở mắt to hơn một chút rồi nói:

- Ồ không đâu, tôi không nộp anh cho cảnh sát đâu. Tôi với mấy người bạn chỉ muốn dàn xếp chuyện riêng với anh thôi mà. Anh biết nhiều quá, anh Hannay. Anh diễn hay lắm, nhưng chưa đủ.

Giọng lão chắc nịch, nhưng tôi cảm được chút nghi vấn vừa chớm trong đầu kẻ thù. Tôi kêu to:

- Thôi đi ông, đừng có nói lung tung nữa. Từ hồi lên bờ ở Leith tới giờ toàn gặp chuyện xui xẻo. Đói quá tôi mới lượm mấy đồng bạc rớt trong cái xe hư chớ có gì ghê gớm đâu. Vậy mà tụi cảnh sát cứ đeo theo rượt làm tôi chạy muốn chết suốt hôm qua tới giờ. Thôi tôi mệt quá rồi, ông muốn làm gì thì làm. Ned Ainslee này chịu thua rồi đó.

Có thể thấy lão già đã thêm phần nghi hoặc. Lão nói:

- Kể tôi nghe anh làm gì mấy bữa nay.

Tôi trả lời giọng than van hệt như kẻ ăn mày:

- Đói quá kể không nổi, ông chủ à. Hai ngày rồi không có miếng gì vô bụng. Cho tôi ăn no rồi tôi sẽ kể hết sự thật đầu đuôi ông nghe.

Mặt tôi lúc đó nhìn chắc đói lắm nên lão ra dấu cho một tên đứng ngay cửa. Hắn đem lại miếng bánh nướng đã nguội với ly bia. Tôi ăn hùng hục như heo, đúng hơn là như anh chàng Ned Ainslee vì tôi đang phải nhập vai anh ta. Giữa lúc tôi ngấu nghiến nhai thì lão già thình lình nói một câu tiếng Đức, nhưng nét mặt tôi vẫn trơ như đá khi quay lại nhìn lão ta.

Sau đó tôi kể chuyện của mình cho lão già nghe. Cách đó một tuần chiếc tàu tôi đi từ Archangel cập bến ở Leith, tôi lên bờ và đi về nhà ông anh ở Wigtown theo đường bộ. Tôi đã cạn tiền - tôi nói bóng gió về chuyện phung phí trước đó - và đang lúc túng quẫn tôi nhìn thấy dấu hàng rào gãy bên đường, bên kia hàng rào có chiếc xe to nằm dưới suối. Tôi tò mò lại gần coi thử có chuyện gì thì thấy trên ghế có ba đồng sovereign, thêm một đồng rớt dưới sàn xe nữa là bốn. Không thấy ai nên tôi lượm hết bỏ túi. Nhưng không hiểu cách nào cảnh sát lại biết được. Lúc tôi vô tiệm bánh đổi tiền lẻ thì bà chủ kêu cảnh sát, rồi lát sau tôi đang rửa mặt dưới suối thì suýt bị túm, tôi phải bỏ áo ngoài mà chạy. Tôi thốt lên:

- Họ muốn lấy lại tiền thì để tôi trả, chớ tôi có xài được đâu. Tại tôi nghèo nên mới bị làm dữ, chớ như ông chủ mà lượm tiền đó thì chẳng ai dám đụng tới.

Lão nói:

- Anh bịa chuyện hay lắm, anh Hannay.

Tôi giận quá la to:

- Giỡn dai quá vậy cha! Đã nói rồi, tên tôi là Ainslee, từ hồi cha sinh mẹ đẻ tới giờ chưa nghe cái tên Hannay lần nào. Thà bị cảnh sát tóm còn hơn ở đây nghe cha lải nhải Hannay này Hannay nọ, lại còn bị hai thằng khỉ đột kia chĩa súng vô đầu nữa... Xin lỗi ông chủ, tôi nóng quá nói bậy. Cảm ơn ông cho ăn, trống đường rồi xin phép ông tôi đi đây.

Rõ ràng lão ta rất bối rối. Lão chưa bao giờ nhìn thấy tôi, và cho là lão có hình của tôi đi nữa thì chắc hẳn bộ dạng tôi lúc này cũng đã khác xa. Ở Luân Đôn tôi bảnh bao chừng nào thì bây giờ lôi thôi lếch thếch chừng nấy.

- Tôi chưa cho anh đi được đâu. Nếu đúng như anh nói thì không có gì phải lo, còn nếu đúng như tôi nghĩ thì anh cứ coi như đã hết thời.

Lão rung chuông, và một tên tay sai thứ ba từ hàng hiên xuất hiện. Lão ra lệnh:

- Chuẩn bị chiếc Lanchester trong vòng năm phút. Cơm trưa cho ba người.

Nói xong lão quay ra nhìn tôi chằm chặp. Với tôi đó là thử thách gay go nhất.

Có cái gì quái đản và quỉ quyệt trong cặp mắt lạnh lùng, hiểm ác, kỳ dị và tinh ranh cực độ của lão già. Tôi bị mê hoặc tưởng như đang nhìn vào mắt rắn. Tôi bị thôi thúc muốn van xin lão ta thương tình tha cho, muốn xin được đứng về phe của lão. Nếu nhớ lại tôi căm ghét bọn chúng tới mức nào thì quí vị sẽ hiểu sự thôi thúc này hoàn toàn là kết quả của đầu óc bị một ý chí mạnh mẽ hơn khuất phục và cưỡng bức. Tuy vậy tôi cũng cầm cự được và lại còn nhe răng cười. Tôi nói với lão:

- Lần sau gặp là ông chủ nhận ra tôi liền đó.

Lão ta nói với một trong hai tên đứng chỗ cửa bằng tiếng Đức:

- Karl, cậu nhốt thằng này vô kho chờ tôi về. Cậu chịu trách nhiệm canh giữ nó cho tôi.

Tôi bị dẫn ra khỏi phòng, mỗi họng súng chĩa một bên tai.



Nhà kho là một căn buồng ẩm ướt trong gian nhà trại cũ. Sàn nhà mấp mô không trải thảm, cũng không có gì để ngồi ngoại trừ một băng ghế học trò. Trong phòng tối như mực vì cửa sổ đều bị bịt kín. Tôi đưa tay sờ soạng thì biết sát vách tường có nhiều thùng và bao đựng thứ gì nặng. Không khí sực mùi mốc meo. Bọn canh tù vặn chìa khóa cửa lại, và tôi nghe tiếng chân chúng xê dịch trong lúc đứng gác bên ngoài.

Tôi ngồi xuống trong bóng tối lạnh lẽo, trong lòng hết sức lo sợ. Lão già đã đi đón hai tên hỏi chuyện tôi hôm qua. Bọn chúng đã nhìn thấy tôi giả dạng phu làm đường và sẽ nhận ngay ra tôi, vì tôi vẫn mặc cùng một bộ đồ. Phu làm đường gì lại ở xa chỗ làm tới hai chục dặm, lại còn bị cảnh sát rượt đuổi nữa? Chúng chỉ cần hỏi một hai câu là ra manh mối. Có thể chúng đã gặp ông lão Turnbull, hay cả thằng Marmie nữa không chừng. Rất có thể chúng đã biết được liên hệ giữa tôi với Sir Harry, nếu vậy thì mọi chuyện thành ra rõ như ban ngày. Tại căn nhà giữa đồng hoang này tôi làm cách gì chống nổi ba tên tội phạm liều mạng cùng với bọn tay sai cầm súng của chúng?

Tôi bắt đầu thấy tiêng tiếc khi nghĩ tới mấy ông cảnh sát giờ này đang lội núi đuổi theo cái bóng ma của tôi. Dù gì thì họ cũng là đồng bào lương thiện, lọt vô tay họ cũng đỡ hơn bọn ngoại tộc ma quái này. Nhưng chắc gì họ sẽ nghe tôi. Lão già quỉ quái hồi nãy đã nhanh chóng thuyết phục được họ đi chỗ khác. Tôi nghĩ lão chắc có thông đồng gì với cảnh sát, hay nhiều khả năng hơn là lão có giấy tờ gì của mấy ông bộ trưởng yêu cầu các cấp tạo mọi điều kiện để quí ông đây tự do mưu đồ chống lại nước Anh. Chẳng phải đó là cách thức khôn ngoan mà nền chính trị xứ này đang vận hành hay sao?

Cả ba tên sẽ về đây ăn trưa, nghĩa là tôi chỉ phải chờ không quá hai giờ. Chỉ là chờ chết mà thôi, vì tôi không thấy có cách nào thoát ra cho được. Tôi ước ao mình có được lòng can đảm của Scudder, vì quả thật là tôi thiếu gan lì. Tôi chưa mất hết tinh thần là nhờ cơn tức giận đang bừng dậy. Tôi phẫn nộ khi nghĩ mình lại thua đám lưu manh kia. Tôi hy vọng sẽ vặn cổ được một tên trước khi bị chúng hạ sát.

Càng nghĩ càng thấy tức khiến tôi không thể ngồi yên. Tôi thử mở cửa sổ nhưng cửa đã bị khóa nên không nhúc nhích. Có tiếng gà mái cục cục trong nắng ấm vẳng lại từ phía ngoài. Tôi mò mẫm trong đám thùng và bao. Tôi không mở được mấy cái thùng, còn mớ bao thì chứa đầy thứ gì hình thù giống như bánh cho chó nhưng có mùi quế. Khi rà quanh phòng tay tôi đụng phải một cán cầm trên vách khiến tôi lấy làm tò mò.

Thì ra chỗ đó là cánh cửa của một tủ chìm trong tường, nhưng cửa lại bị khóa. Tôi lắc thử thì thấy cửa không chắc lắm. Không có chuyện gì làm nên tôi dùng dây đeo quần quấn mấy vòng quanh nắm cửa rồi lấy hết sức kéo mạnh. Cánh cửa gãy rầm một tiếng, tôi nghĩ bọn canh gác chắc sẽ vô coi có chuyện gì. Chờ mấy phút không thấy động tĩnh, tôi bắt đầu sờ soạng trong mấy ngăn tủ.

Trong tủ chứa đầy những đồ vật lạ. Tôi lục túi quần kiếm được vài que diêm đánh lên. Ánh sáng lóe lên chỉ một giây đồng hồ nhưng đủ cho tôi thấy trên kệ có mấy chiếc đèn pin. Tôi lấy một chiếc thử thì đèn vẫn tốt.

Có đèn trong tay tôi bèn lục lạo tiếp. Tôi thấy nhiều chai và hộp đựng chất gì mùi là lạ chắc là hóa chất để thí nghiệm, nhiều cuộn dây đồng mảnh và rất nhiều lụa mỏng tẩm dầu. Có một hộp ngòi nổ với nhiều dây mồi. Sát vách tủ tôi tìm được một thùng cạc-tông cứng cáp màu nâu bên trong có một hộp gỗ, tôi nạy ra thấy mấy miếng nhỏ màu xám, mỗi miếng rộng một hai inch vuông.

Tôi cầm lên một miếng thấy nó bể ra trong tay. Tôi ngửi và nếm thử, rồi ngồi xuống suy nghĩ. Tôi làm kỹ sư mỏ nên biết thứ chất nổ lentonite này.

Chỉ cần một miếng như vầy là đủ cho tôi nổ nát banh cái nhà này lên. Hồi ở Rhodesia tôi đã dùng rồi và biết rõ sức công phá của nó. Vấn đề là tôi không còn nhớ rõ chi tiết như dùng bao nhiêu thuốc, trộn làm sao, cháy bao lâu thì nổ. Tôi cũng chỉ nhớ lờ mờ về sức công phá vì lúc trước tôi không tự tay chuẩn bị mà sai người khác làm.

Nhưng đây là cơ hội duy nhất cho tôi. Rủi ro tuy rất cao nhưng còn hơn là chết chắc. Nếu tôi cho nổ chỗ này thì khả năng năm chọi một tôi sẽ banh xác văng lên ngọn cây, nhưng nếu không làm vậy chắc chắn tối nay tôi sẽ nằm yên dưới mấy thước đất. Tôi đã ở trong thế đường nào cũng tối đen, nhưng tôi phải chọn con đường nào còn đem lại được chút hy vọng nhỏ nhoi cho bản thân và cho đất nước.

Ký ức về ông Scudder bé nhỏ khiến tôi quyết định dứt khoát. Đây là giây phút cực kỳ khó khăn vì tôi không quen chuyện tính toán lạnh lùng. Tuy vậy tôi cũng thu được can đảm, nghiến răng và nén chặt cảm giác hoài nghi khủng khiếp xuống ngực. Tôi ép mình không suy nghĩ gì thêm, giả vờ như đang làm thí nghiệm đơn giản kiểu như đốt pháo bông.

Tôi lấy chiếc ngòi nổ nối vô vài inch dây mồi. Tiếp đó tôi lấy một phần tư bánh lentonite nhét xuống khe nứt trên sàn bên dưới một chiếc bao gần cửa buồng, rồi gắn ngòi nổ vào. Mớ thùng chất trong buồng không chừng đựng đầy chất nổ cũng nên, trong tủ có thì tại sao trong thùng lại không? Nếu đúng vậy thì chút nữa đây tôi với bọn đầy tớ người Đức cùng mọi thứ khác trong vòng nửa mẫu đất chung quanh sẽ tung hết lên trời trong ánh lửa rực rỡ. Cũng có khả năng mớ thuốc trong tủ sẽ nổ theo, tôi đã quên gần hết những gì biết được về lentonite nên không dám chắc. Nhưng cứ nghĩ về những điều có thể xảy ra thì ích lợi gì. Rủi ro quá sức lớn, nhưng tôi buộc phải chấp nhận.

Tôi nép người dưới bậu cửa sổ, châm dây mồi rồi chờ mấy giây. Chung quanh yên lặng như tờ, chỉ có tiếng giày nặng nề lê trong hành lang và gà mái kêu cục cục bình yên ngoài sân nắng. Tôi giao phó linh hồn cho Tạo Hóa và thầm nghĩ không biết năm giây nữa mình sẽ ở đâu.

Một làn khí nóng bỏng từ dưới sàn ập lên rồi lơ lửng bất động trong khoảnh khắc. Bức tường trước mặt tôi tóe lửa vàng rồi tan biến trong tiếng nổ đinh tai khiến óc tôi tưởng chừng nát nhừ. Chỏm vai bên trái của tôi bị vật gì rớt trúng. Sau đó tôi ngất đi.

Chắc hẳn tôi bất tỉnh chỉ trong vài giây. Tôi gần như ngạt thở trong đám khói dày màu vàng, loạng choạng đứng dậy giữa căn phòng đổ nát. Tôi cảm thấy sau lưng có không khí mát, quay lại nhìn thấy hai bên khung cửa sổ đã rớt xuống và khói tuồn qua lỗ hổng tràn ra ngoài trời hè buổi trưa. Tôi bước qua thanh ngang ô cửa đã gãy, ra tới mảnh sân dày đặc khói cay sè. Người tôi xây xẩm, nhưng chân tay còn cử động được. Tôi lảo đảo bước ra xa ngôi nhà mà không cần biết mình đi đâu.

Bên kia mảnh sân có một máng gỗ to dẫn nước tới guồng cối xay. Tôi ngã vô máng, nước lạnh khiến tôi tỉnh lại và còn đủ tâm trí để nghĩ tới chuyện thoát thân. Tôi trườn dọc máng nước phủ rêu trơn cho tới chỗ guồng quay, rồi chui qua lỗ trục guồng rơi xuống đống trấu trong gian nhà xay cũ kỹ. Đáy quần tôi móc vô một cây đinh, bỏ lại đằng sau túm vải xám.

Nhà xay lúa này đã bỏ phế từ lâu. Cầu thang đã cũ mục, và trên gác chuột đã gặm lủng sàn gỗ. Tôi thấy buồn nôn, đầu óc choáng váng trong lúc cánh tay và vai bên trái tê dại như bị liệt. Tôi nhìn ra cửa sổ thấy căn nhà còn bị phủ mờ và khói bốc ra từ một cửa sổ tầng trên. Tôi nghe tiếng kêu quýnh quáng vọng lại, thì ra nhờ trời tôi đã làm cháy luôn hang ổ của kẻ thù.

Nhưng tôi không thể nán lại lâu, vì đây không phải là chỗ để trốn. Kẻ thù sẽ khởi sự lùng sục ngay khi không tìm thấy xác tôi trong nhà kho, và chắc chắn chúng sẽ lần theo máng nước. Nhìn qua một cửa sổ khác tôi thấy từ nhà xay lúa đi ra phía xa có một chuồng bồ câu cũ xây bằng đá. Tôi có thể qua trốn bên đó miễn là không để lại dấu vết gì trên đường đi. Về phía kẻ thù, chúng sẽ tin rằng tôi đã tìm cách chạy khỏi đây và do vậy sẽ tìm bắt tôi ngoài trảng.

Tôi lần xuống chiếc thang gãy, rải trấu đằng sau để che dấu chân. Tôi cũng rải trấu trên sàn nhà cho tới ngạch cửa, phần trên cánh cửa đã xệ xuống vì sút bản lề. Len lén nhìn ra ngoài tôi thấy giữa chỗ tôi đứng và chuồng bồ câu là một vạt đất trống đầy sỏi, dấu chân không thể in xuống. May mắn nữa là vạt đất được nhà xay lúa che khuất, từ ngôi nhà chính không nhìn thấy được. Tôi rón rén băng qua khoảng trống tới mặt sau của chuồng bồ câu và tìm cách trèo lên.

Đây là một trong những việc khó khăn nhất tôi từng phải làm trong đời. Vai và cánh tay tôi đau buốt trong lúc đầu óc xây xẩm làm tôi lúc nào cũng chực té, nhưng tôi vẫn tiếp tục leo. Bám vào vài gờ đá nhô ra, ít lổ hổng trong tường và một rễ thường xuân chắc cứng, cuối cùng tôi cũng lên tới đỉnh chuồng bồ câu. Tôi nằm vật xuống phía sau bờ lan can nhỏ rồi lịm đi.

Tôi tỉnh dậy đầu sốt bừng bừng, nắng gắt rọi thẳng vô mặt. Tôi nằm bất động lúc lâu vì khói thuốc nổ khiến khớp xương tôi rã rời còn đầu óc mụ mẫm đi. Từ phía ngôi nhà vọng lại tiếng người nói giọng họng và tiếng gầm từng đợt của xe nổ máy chờ. Tôi nhích tới gần khoảng trống giữa lan can, từ đây có thể nhìn sơ qua sân trại. Tôi thấy có người trong nhà đi ra, một gã đầy tớ đầu quấn băng rồi tới một tên trẻ hơn mặc quần thụng gối. Bọn chúng tìm kiếm quanh đó rồi tiến về phía nhà xay lúa. Một tên bắt gặp túm vải mắc trên cây đinh, kêu tên kia lại chỉ. Cả hai quay vô nhà dẫn thêm hai tên nữa ra nhìn. Tôi thấy dáng tròn trịa của lão già đã bắt tôi, đồng thời nhận ra tên nói lắp. Tên nào tay cũng lăm lăm súng.

Bọn chúng lục tung nhà xay lúa suốt nửa tiếng đồng hồ. Tôi nghe tiếng chúng đá thùng và nhổ ván sàn đã mục lên. Rồi chúng bước ra ngoài đứng ngay dưới chuồng bồ câu tranh cãi gay gắt. Tên đầy tớ đầu quấn băng bị mắng chửi không tiếc lời. Tôi nghe tiếng chúng thử lắc cánh cửa phía dưới mà tim thót lại vì sợ. May sao bọn chúng đổi ý và quay gót trở lại nhà.

Suốt buổi chiều hôm đó tôi nằm phơi mình dưới ánh nắng rốc da trên nóc chuồng bồ câu. Tôi khổ sở nhất vì khát. Lưỡi tôi khô như khúc củi, đau khổ hơn nữa là từ chỗ tôi nằm có thể nghe tiếng nước mát lạnh róc rách trong đường máng chạy guồng cối xay. Tôi nhìn dọc theo con suối nhỏ từ ngoài trảng chảy vô. Trong tưởng tượng tôi lần ngược dòng suối tới tận đầu thung lũng là nơi nước nguồn lạnh băng phun ra giữa đám rêu và dương xỉ vây quanh, và tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được vục mặt vào đó.

Từ chỗ nấp tôi có thể nhìn thấy một vòng trảng cỏ rộng lớn. Tôi thấy chiếc xe chở hai tên chạy đi, một tên nữa cỡi ngựa phóng về phía đông. Tôi biết chúng đang lên đường tìm tôi và thầm chúc chúng đi một chuyến vui vẻ.

Tuy nhiên có chuyện đáng quan tâm hơn nhiều. Ngôi nhà nằm gần đỉnh một vồng đất cao giữa trảng, chung quanh không còn gì cao hơn ngoại trừ những đỉnh núi cách đó sáu dặm. Ngay trên đỉnh là một cụm rừng, hầu hết là tùng với một ít dẻ và tần bì. Nóc chuồng bồ câu gần ngang tầm với ngọn cây nên tôi có thể nhìn thấy ra sau đám cây. Thì ra cụm rừng không mọc sâu vô trong mà chỉ viền quanh một vạt cỏ rộng hình bầu dục giống như sân chơi cricket cỡ lớn.

Tôi không phải mất nhiều thì giờ mới đoán ra đó là một sân bay bí mật. Địa điểm được chọn quả rất khéo. Ngọn đồi này nhô cao hơn hết thảy vùng đất rộng chung quanh, thành thử nếu có ai quan sát máy bay hạ cánh thì sẽ lầm tưởng nó đã bay khuất sau đồi cây cho dù người đó nhìn từ phía nào đi nữa. Chỉ có ai đứng rất gần thì mới nhận ra chiếc máy bay không bay qua bên kia đồi mà hạ cánh ngay giữa rừng. Từ những đỉnh núi cao hơn đằng xa nếu dùng ống dòm thì có thể khám phá được sự thật, nhưng chỉ có người chăn bầy mới lên trên đó, mà người chăn bầy thì không cầm theo ống dòm. Từ nóc chuồng bồ câu nhìn ra tôi thấy một đường màu xanh ở xa xa. Tôi biết nơi đó là biển, và trong lòng thấy phẫn nộ khi kẻ thù lại có được cái trạm quan sát bí mật này để mặc tình do thám thủy lộ của chúng ta.

Tới đây tôi nghĩ nếu máy bay của kẻ thù trở về thì khả năng mười chọi một tôi sẽ bị lộ. Suốt buổi chiều tôi nằm đó mong cho trời mau tối, và tôi hết sức mừng rỡ khi mặt trời xuống khuất sau dãy núi cao phía tây rồi bóng mờ hoàng hôn trùm xuống vùng trảng cỏ. Chiếc máy bay trở về khá muộn. Trời đã tối lắm khi tôi nghe tiếng cánh lướt gió và nhìn nó êm ru hạ xuống ngay giữa rừng. Có ánh đèn nhấp nháy một lúc, tiếng người đi lại lao xao từ nhà tới bãi đáp, rồi màn đêm buông trong yên lặng.

May mắn là trời tối đen. Đã gần cuối chu kỳ nên còn lâu trăng mới lên. Tôi quá khát nên không thể chần chờ, tới khoảng chín giờ tôi bắt đầu trèo xuống. Việc này cũng không dễ dàng gì, đang xuống được nửa chừng tôi nghe cửa sau nhà trại mở và có ánh đèn hắt lên vách nhà xay lúa. Tôi kinh hoảng bám chặt sợi dây leo suốt mấy phút căng thẳng, trong bụng cầu cho kẻ nào cầm đèn đừng tới gần chuồng bồ câu. Rồi ánh đèn biến mất, và tôi ráng buông mình thật nhẹ xuống sân đất cứng.

Tôi bò đằng sau một bờ rào đá cho tới ven đám cây bao quanh khu nhà. Nếu biết cách thì tôi đã phá cho hư chiếc máy bay, nhưng tôi nghĩ mình chẳng làm gì được đành thôi. Tôi tin chắc chung quanh khu nhà thế nào cũng có hệ thống bảo vệ nên chống tay bò qua cánh rừng, để ý từng tấc đất trước mặt. Đúng như tôi nghĩ, chỉ lát sau trước mặt tôi là một sợi dây căng ngang cách mặt đất khoảng hai feet. Chỉ cần tôi vấp sợi dây này thì trong nhà sẽ có chuông báo động và tôi sẽ lại sa vào tay kẻ thù.

Sau đó chừng một trăm yard lại có sợi dây thứ hai chăng rất lợi hại ngay mép suối. Bên kia suối là trảng cỏ rộng, năm phút sau tôi đã lút giữa đám dương xỉ và thạch thảo. Chẳng mấy chốc tôi đã vòng qua bên kia đồi, lọt vào thung lũng hẹp nơi có dòng suối chảy vô guồng cối xay lúc nãy. Mười phút sau tôi gục mặt trong làn nước mát lành, uống cho đến lúc thỏa thuê.

Nhưng tôi không dừng lại cho tới khi đã cách khu trại chết toi kia nhiều dặm đường.

No comments:

Post a Comment