Thursday, April 12, 2012

Khung cửa mở

Dịch từ truyện ngắn The Open Window trong tập Beasts and Super-Beasts của Saki (1914)

Cô tiểu thư mười lăm tuổi điềm đạm nói:

- Dì cháu chút nữa sẽ xuống, thưa ông Nuttel. Còn giờ thì ông chịu khó cho phép cháu hầu chuyện vậy.

Framton Nuttel nheo óc ráng tìm lời sao cho được lòng cô cháu đang ở trước mặt mà cũng nể nang bà dì sắp xuất hiện. Lòng chàng hơn bao giờ hết nghi ngờ chuyện thăm viếng xã giao một loạt người không quen biết như vầy thì ích lợi gì cho việc chữa trị thần kinh của mình.

Khi chàng sửa soạn về quê tĩnh dưỡng, bà chị đã nói:

- Chị biết mà, xuống dưới đó cậu sẽ ru rú một mình không nói chuyện với ai rồi buồn chán đâm ra nghĩ ngợi suốt, không tốt cho thần kinh đâu. Để chị viết thư giới thiệu cậu với mấy người quen dưới đó. Chị nhớ cũng có vài người dễ thương lắm.

Framton cầm trong tay lá thư giới thiệu của bà chị và tự hỏi không biết bà Sappleton này có thuộc loại dễ thương hay không. Nhắm chừng im lặng đã vừa lâu, cô cháu lên tiếng hỏi:

- Ông có quen biết nhiều người quanh đây không ạ?

Framton đáp:

- Tôi không quen ai hết cô à. Tôi có bà chị ở đằng tư thất mục sư dưới này hồi bốn năm trước, rồi chị tôi viết thư giới thiệu tôi với vài người quanh đây vậy thôi.

Câu cuối chàng nói với giọng hối tiếc rõ rệt. Cô cháu lại điềm đạm hỏi tiếp:

- Vậy là ông không biết gì về dì của cháu ạ?

Khách của cô thừa nhận:

- Tôi chỉ biết có cái tên với địa chỉ thôi.

Chàng lại thắc mắc không biết bà Sappleton này có chồng hay là góa phụ. Căn phòng dường như có phảng phất chút gì của đàn ông. Cô tiểu thư tiếp:

- Hồi ba năm trước có chuyện rất bi thảm xảy tới cho dì. Lúc đó chắc bà chị của ông đã rời khỏi đây rồi.

Giữa chốn làng quê thanh bình này chuyện bi thảm nghe sao khó tin. Framton hỏi lại:

- Chuyện bi thảm ư?

Cô cháu đưa mắt về phía khung cửa mở ra khoảng sân cỏ và nói:

- Chắc ông cũng thắc mắc vì sao chiều tháng mười như vầy mà cái cửa kia lại mở toang ra.

Framton đáp:

- Trời mùa này vậy là ấm lắm rồi. Nhưng mà khung cửa kia thì liên quan gì tới chuyện bi thảm cô mới nhắc?

- Dạ, đúng ngày này tròn ba năm trước, chồng với hai em trai của dì bước qua cái cửa đó để đi săn rồi không trở về nữa. Trên đường băng qua trảng cỏ để tới chỗ săn chim dẽ giun, cả ba bị lún mất trong bãi lầy. Mùa hè năm đó mưa tầm tã, mấy chỗ lúc trước vẫn khô ráo thình lình trở thành đất lầy mà không ai hay. Kinh khủng nhất là cả ba người đều không tìm được xác.

Nói tới đây giọng cô bé mất vẻ điềm đạm, trở nên run run xúc động. Cô nói tiếp:

- Tội nghiệp, dì cháu trong đầu vẫn cho rằng có ngày họ sẽ trở về với con chó săn nhỏ lông nâu cùng biệt tích bữa đó, thành thử chiều nào dì cũng mở cửa chờ họ bước vô nhà cho tới tối mịt mới đóng lại. Dì vẫn hay kể bữa đó chồng dì khoác trên tay cái áo mưa màu trắng, còn cậu em út Ronnie thì ngâm nga câu "Bertie sao cứ tung tăng" để chọc dì vì cậu biết dì vẫn bực mình khi nghe câu ca đó. Ông biết không, vào những chiều tĩnh lặng như hôm nay đôi khi cháu lại có cảm giác rờn rợn là họ sẽ lại bước vô nhà qua khung cửa kia...

Cô rùng mình, ngưng bặt. Framton nhẹ cả người khi bà dì ào vô phòng rối rít xin lỗi đã để chàng phải chờ. Bà nói:

- Cháu Vera nó không làm ông chán chứ?

Framton đáp:

- Cô ấy nói chuyện hay lắm.

Bà Sappleton lẹ làng nói:

- Chúng tôi để mở cánh cửa đằng kia, mong là ông không phiền. Nhà tôi với hai cậu em đi săn sắp về, sẽ vô nhà bằng ngả này. Bữa nay mấy ổng săn chim dẽ giun trong đầm lầy, lát nữa về thế nào cũng làm dơ hết mớ thảm của tôi. Mấy ông là vậy hết, có phải không?

Bà vui vẻ huyên thuyên nói chuyện săn bắn, chuyện khan hiếm chim rừng cùng triển vọng săn vịt trời mùa đông. Framton nghe mà rợn người, và chàng ráng sức lái sang đề tài khác dễ chịu hơn nhưng không ăn thua mấy. Chàng cảm thấy rõ bà chủ nhà chỉ để ý chàng qua loa, còn ánh mắt bà cứ liên tục hướng ra khung cửa mở với khoảng sân cỏ phía ngoài. Thật xui xẻo cho chàng lại dẫn xác tới đúng ngày kỷ niệm đau buồn này.

Như nhiều người khác, Framton mang nặng ý tưởng sai lạc rằng tất cả những ai chưa quen hoặc quen sơ đều hăm hở muốn nghe chàng kể tỉ mỉ chuyện đau ốm của mình từ nguyên do tới cách chữa trị. Chàng nói:

- Các bác sĩ đều đồng ý là tôi cần phải tuyệt đối tĩnh dưỡng, tránh kích động thần kinh, không vận động thân thể quá nhiều. Tuy nhiên về vấn đề dinh dưỡng thì họ lại có ý kiến khác nhau.

Bà Sappleton đáp, giọng ráng kìm cho khỏi ngáp:

- Ồ vậy hả?

Thình lình bà tỉnh hẳn lên, nhưng không phải để nghe chàng nói:

- Họ về rồi đây, vừa kịp giờ uống trà. Coi kìa, bùn dính từ đầu tới chân thấy mà ớn!

Framton khẽ rùng mình. Chàng quay qua cô cháu với cái nhìn cảm thông thì thấy cô bé ngó trân ra cửa, ánh mắt kinh hoàng. Nỗi sợ hãi kỳ lạ khiến chàng lạnh toát, xoay phắt người nhìn ra theo.

Trong ánh chiều tà chập choạng có ba bóng người băng qua sân cỏ tiến về ô cửa mở. Cả ba đều cắp súng trong tay, và một người trên vai vắt thêm chiếc áo choàng trắng. Bám sau gót họ là một con chó săn màu nâu vẻ mệt mỏi. Toán người tới gần nhà tịnh không tiếng động, rồi thình lình trong bóng tối nhá nhem ồ ồ vang lên giọng trai trẻ: "Bertie sao cứ tung tăng?"

Framton cuống cuồng chụp lấy mũ với gậy; rồi cửa chính, lối rải sỏi trước sân cùng hai cánh cổng loáng qua trong lúc chàng hộc tốc lao khỏi nhà khiến một người đi xe đạp ngoài đường phải đâm sầm vô bờ rào để tránh.

Người khoác áo mưa trắng bước qua cửa và nói:

- Về rồi đây em. Dính bùn nhiều, nhưng cũng khô gần hết rồi. Ai mà lại vọt chạy mất khi bọn anh tới gần vậy?

Bà Sappleton đáp:

- Ông ta tên Nuttel. Người thật lạ lùng, toàn nói chuyện đau ốm, rồi lúc anh về lại chạy vụt đi mất mà không chào hay xin lỗi gì hết. Làm như thấy ma không bằng.

Cô cháu điềm đạm lên tiếng:

- Chắc tại con chó ạ. Ông ấy kể là sợ chó lắm. Hồi ở Ấn Độ có lần ông ấy bị một bầy chó hoang rượt vô nghĩa địa, phải ở suốt đêm dưới huyệt mả mới đào trong lúc cả bầy nhe răng chảy dãi gầm gừ ngay phía trên. Ai mà chẳng khiếp vía.

Ứng khẩu đặt chuyện đúng là sở trường của cô.

No comments:

Post a Comment